top of page

Search Results

Tìm thấy 52 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống

  • [REVIEW] Thẻ tín dụng, ngân hàng và các ứng dụng tín dụng tiêu dùng tại Nhật

    Thấy có bạn review về thẻ tín dụng của ngân hàng SMBC mà thấy thông tin ít quá nên tiện mình review thêm vài loại. 1. Thẻ tín dụng tại Nhật 1.1 Những thẻ tín dụng đang sở hữu – Rakuten Premium card (Visa) – Amazon Credit card (Master) – Zozo Credit card (Master) 1.2 Những đơn vị phát hành thẻ đã từng trượt – UFJ – SMBC – Mizuho – Aeon 1.3 Đánh giá – Đăng ký tại các trung tâm thương mại hay thẻ Rakuten thì rất dễ đăng ký. Bạn mình là tu nghiệp sinh mà còn đăng ký được 2-3 cái thẻ tín dụng ở các trung tâm thương mại. Thẻ Rakuten mình đăng ký khi còn là sinh viên, báo đỗ luôn sau có vài tiếng. – Khó nhất là thẻ tín dụng của các ngân hàng, mình đi làm và hạn mức cả thẻ đang dùng khá cao rồi mà vẫn trượt. – Còn 1 điều được khuyên khi đăng ký thì không nên đăng ký 1 lúc 2~4 đơn vị phát hành thẻ, vì đây là hành vi bị đánh giá là high-risk. – Muốn biết có đang ở tình trạng khó đăng ký thì có thể check CIC. Phí 1sen trả qua thẻ tín dụng. – Rakuten card mình dùng từ thẻ miễn phí tới hiện tại nâng lên thẻ gần như cao nhất (sau thẻ black và business). Thẻ level càng cao thì độ bảo mật càng cao, hồi mình dùng thẻ Gold với mức tiêu vẫn vậy mà qua thẻ Premium bị lock liên tục, 1 tháng cỡ 2-3 lần phải gọi lên center để unlock hay nhờ họ setting thời gian mình không bị lock. Có email tạm thời thông báo ngày hôm trước tiêu gì, đây vẫn chưa phải là chính thức nên nếu bên bán hàng chưa hoàn thành thủ tục thì bạn chưa phải trả tiền đâu. Có 1 cái email khác nữa thông báo thì chính thức phải trả tiền những khoản ghi trong đó. – Rakuten card nâng hạn mức (継続) cũng khá khó, mỗi lần nâng cách nhau 6 tháng. Mới đăng ký thẻ miễn phí thì hạn mức 10man/1 tháng. Còn nâng hạn mức tạm thời (一時) 2 tháng thì cũng dễ. – Amazon card thì thuộc SMBC, chỉ có mỗi Master và mới thì được 20man/1 tháng. Mình thích nhất là nâng hạn mức cực dễ. Mình mới dùng được tầm 5-6 tháng mà đã có thể nâng hạn mức tạm thời gấp 5-6 lần rồi. Độ bảo mật thì mình đánh giá bình thường, mãi sau này mình tiêu ác quá thì mới bật chế độ lock. Được cái nếu cài app SMBC (app ngân hàng nhé) thì tiêu gì sẽ notification lên luôn và có cả email về mail đăng ký nữa. Cái này real-time, không phải đợi tới khi lên hệ thống mới notification đâu. – Zozo card thì đăng ký cũng dễ, còn tự nâng hạn mức hộ mình cơ. Mới đăng ký được luôn 30man. – Để ý thì sẽ thấy cả 3 thẻ mình đang dùng đều thuộc đơn vị phát hành thẻ là sàn thương mại điện tử. Các bạn hay mua sắm thì chắc không thể thiếu 3 loại này rồi. Tích point siêu nhiều. – UFJ, SMBC, Mizuho thì mình trượt tới mức ngỡ ngàng luôn. – Aeon bị trượt rất ngớ ngẩn là do đợt đó sim mình dùng Rakuten, sóng khá yếu. Họ gọi cho mình để xác nhận không được nên đánh trượt. Mình để hẳn điện thoại trước mặt mà nhận được cái là thư thoại, gọi lại thì báo bị đánh trượt do không liên lạc được. – Ai dùng iPhone từ 8 trở lên thì có thể nạp thẻ Pasmo qua Apple Pay (trước đây chỉ cho Master, hình như gần đây cho Visa rồi). 2. Ngân hàng tại Nhật 2.1 Những ngân hàng đang dùng – SMBC – UFJ – Mizuho – Rakuten 2.2 Đánh giá – SMBC dùng qua app cực thích, chuyển tiền trong SMBC thì có ngay lập tức dù là thứ 7 hay CN. Mình không chuyển ra ngoài nên không rõ khác bank có ngay không. Rút tiền sau 20h và thứ 7, CN thì mất phí. Nếu bạn đăng ký debit card thì thường sẽ chung luôn với thẻ ATM. Không mất phí thường niên. – UFJ nhớ là chỉ trong giờ hành chính thì ngay lập tức còn nếu giờ nghỉ hay thứ 7, CN thì đợi giờ làm việc mới chuyển. Không rõ thay đổi cơ chế chưa nữa. Rút tiền khá thích là sau 23h hay 24h mới mất phí. Trường hợp của UFJ có thể nhét tiền được cho SMBC và ngược lại. – Mizuho thì phí chuyển tiền khá cao, mình đăng ký chỉ bởi vì chủ nhà dùng Mizuho. – Rakuten có cho chuyển tiền khác ngân hàng miễn phí vài lần. Rakuten thì cũng nhận tiền được ngay luôn. Nhét tiền vào dưới 3man thì mất phí. Nhét tiền ở case Yucho, UFJ, Kombini 7/11,…khá đa dạng. 3. Các ứng dụng tín dụng tiêu dùng 3.1 Đang dùng – Mercari – Paidy 3.2 Đánh giá – Mercari dùng khá là tiện, hạn mức tối đa hiện tại mình thấy là 25 man. Đã có thông tin là hạn mức tối đa tới tận 50man, và tùy thông tin của bạn mà Mercari có thể hạ hạn mức của bạn xuống. Thanh toán trả hàng tháng khá dễ. – Paidy thì hạn mức bình thường 15man cho mua sắm, có thể trả làm 3 lần. Nên xác nhận thông tin để có thể trả qua tự động ngân hàng, nếu có việc không nhét tiền kịp lúc trừ tiền tự động thì sẽ chuyển khoản qua ngân hàng GMOあおぞらネット, còn nếu trả qua combini thì mất phí. Những năm trước Apple dùng Orico, mình thấy cực khó để có thể mua trả góp. Bây giờ Apple dùng qua Paidy, trả góp 24 lần với phí 0%, tăng cơ hội cho người nước ngoài mua trả góp. Sắp ra iPhone mới rồi anh/chị/em đăng ký Paidy thôi.

  • Làm việc quản lý thực tập sinh tại Nhật

    Xin giới thiệu qua bản thân là mình tốt nghiệp năm 2010, Đại học APU ở Kyushu, và có khoảng 6 năm hơn làm trong ngành tuyển dụng tại Nhật (trừ đi thời gian nghỉ sinh 2 bé và học MBA). Mình đã từng làm cho 3 công ty, trong đó có 2 công ty gaishikei là Adecco (recruiting assistant) và hiện tại là Hays Recruitment Japan (headhunter). Tuy nhiên công việc giúp mình trưởng thành rất nhiều khi mới tốt nghiệp lên Tokyo 10 năm trước là công việc quản lý thực tập sinh (TTS). Lúc đó, công việc của mình là phiên dịch tài liệu (Việt <-> Nhật); đến thăm các xí nghiệp định kỳ để xem tình hình thực tế TTS làm việc; hướng dẫn ôn thi chuyển giai đoạn; dịch giải quyết sự cố khi có các vấn đề như tai nạn, trộm cắp, cãi cọ v.v… Mình rèn được kỹ năng gì từ công việc quản lý Thực tập sinh? Bản thân mới ra trường, tiếng Nhật còn chưa đủ tốt nên lúc đầu mình gặp không ít khó khăn khi nghe hiểu và thông dịch. Tuy nhiên, do đây là công việc đòi hỏi giao tiếp nhiều nên mình cũng đã học hỏi và rèn được nhiều kỹ năng tốt. Ví dụ như sự năng động, khả năng ứng xử tốt hơn, khả năng phản ứng ngôn ngữ tốt hơn. Và hơn hết là hiểu biết của bản thân về cộng đồng TTS , những bạn có hoàn cảnh khác mình nhưng đều đang ở Nhật vì cùng một mục đích là làm việc chăm chỉ và tích góp cho một tương lai tốt đẹp hơn. Có những ngày mình thức dậy từ 5h sáng để ra sân bay đón các bạn TTS, nhưng mọi mệt mỏi tan biến hết khi nhìn thấy các em mới sang, vừa có chút lo lắng bỡ ngỡ lại vừa có chút phấn khởi mừng vui khi bắt đầu một công việc mới tại một đất nước mới. Cuộc sống của TTS tại Nhật Mọi người có thể nghe nhiều tin không tốt về các em TTS như trộm cắp, đánh nhau v.v… Nhưng khi tiếp xúc cùng các em ấy rồi mới thấy thương và đồng cảm, vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng. Phải xa nhà 3 năm, bươn chải nơi đất khách quê người là điều không hề dễ dàng. Cho dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì xuất phát điểm của họ là muốn sang Nhật kiếm tiền cho gia đình để có một cuộc sống, một tương lai tốt đẹp hơn. Có em đã từng oà khóc với mình và nói “Chị ơi em nhớ mẹ, nhớ nhà, nhớ các em của em quá! Phải hơn 2 năm nữa em mới được về!” Các bạn TTS để được sang Nhật là gia đình đã phải đóng rất nhiều tiền ở nhà, phải chấp nhận là ký hợp đồng ở Nhật 3 năm – trong thời gian này không được về nước. Tuy nhiên, sang đây rồi mới biết sống và kiếm tiền không hề đơn giản. Khó khăn đến bao nhiêu là tuỳ thuộc vào xí nghiệp và nội dung công việc các em làm. Mình đã từng ở cùng các em làm trong xưởng sản xuất linh kiện điện tử (ở Osaka), có người bị bệnh về da do hàng ngày tiếp xúc với bụi sắt bắn ra từ máy mài – mặc dù đã có mặt nạ bảo hộ (bác sĩ nói sẽ bị lâu năm không biết khi nào khỏi). Có các em làm ở xưởng chế biến xúc xích, thịt hun khói (Nagoya thì phải), hàng ngày phải trực tiếp tiếp xúc với thịt sống, và xung quanh nơi ở rất nhiều mùi hôi của gia súc; v.v… Có em đã từng oà khóc với mình và nói “Chị ơi em nhớ mẹ, nhớ nhà, nhớ các em của em quá! Phải hơn 2 năm nữa em mới được về!” Và lúc đấy mình cũng muốn khóc theo em ấy Mối quan hệ với công ty, nghiệp đoàn Các em TTS sang đây không hề tự do như DHS (du học sinh) hay người lao động bình thường, mà phải chịu sự quản lý của nghiệp đoàn. Lúc mình làm công việc này thì đa số các em không được tiếp xúc với internet hay điện thoại, hàng ngày chỉ được ở nhà hoặc đến công xưởng, không được lên tàu đi bất kỳ đâu khác cả. Thi thoảng tới thăm mình mua tặng vài món đồ nhỏ xinh ở 100 yên là các em ấy vui hết cỡ, hỏi han về thế giới bên ngoài ra sao, hay mượn điện thoại mình để vào mạng online, đọc tin tức. Vì sợ các em ham vui bỏ việc và trốn khỏi xí nghiệp trước khi hợp đồng 3 năm hết hạn nên mới có sự quản lý khắt khe như vậy, nhưng dù sao cá nhân mình vẫn thấy việc đó hơi xâm phạm quyền tự do con người. Sự khắt khe, quản lý nghiêm ngặt trong công việc cũng như những áp lực lâu dài từ các mối quan hệ con người, kể cả từ phía người nhà ở VN, cũng dẫn đến việc nhiều bạn bị căng thẳng thần kinh… Nhiều xí nghiệp của Nhật có các bác Nhật quản lý rất chất phác, phúc hậu và kiên nhẫn. Được làm việc với những người như vậy cũng là một cái may mắn của TTS. Tuy nhiên có những chủ lao động không đàng hoàng, quỵt lương, chửi mắng không coi trọng TTS nước ngoài và tìm cách đưa họ về nước ngay khi họ bị tai nạn lao động. Sự khắt khe, quản lý nghiêm ngặt trong công việc cũng như những áp lực lâu dài từ các mối quan hệ con người, kể cả từ phía người nhà ở VN, cũng dẫn đến việc nhiều bạn bị căng thẳng thần kinh hay tự sát để tự giải thoát. Mình may mắn không phải tiếp xúc với các chủ lao động như vậy nhưng thực tế là họ tồn tại rất nhiều và cũng có nhiều bi kịch của các TTS. Lời kết Công việc quản lý TTS hay phải làm việc muộn, kể cả ngày cuối tuần, địa điểm làm việc cũng thường không phải là trung tâm. Vì những lý do trên mà đây có thể không phải là công việc 人気 (được yêu thích) đối với các bạn sinh viên mới ra trường. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm bản thân, mình thấy công việc đem lại những kiến thức, kỹ năng giao tiếp và trải nghiệm xã hội quý giá. Ngoài ra đây cũng là một công việc có tính chất cầu nối trực tiếp giữa người lao động VN và công ty Nhật, nên cảm giác đóng góp giúp đỡ trực tiếp cho người VN và doanh nghiệp Nhật rất rõ ràng. Điều mình trân trọng nhất khi làm công việc này là có thể tiếp xúc với công xưởng Nhật, tầng lớp lao động chân tay của Nhật bản, để thấy mặt tối cũng như mặt sáng của Nhật và nghề TTS. Những kỹ năng giao tiếp có được trong công việc này cũng giúp công việc sau này của mình thuận lợi hơn rất rất nhiều. Bạn nào mới tốt nghiệp có thể cân nhắc công việc này xem sao! Kinh nghiệm của mình là từ 10 năm trước nên có thể hiện tại đã có nhiều đổi khác. Các bạn nào đang hoặc đã từng làm công việc này thì hãy comment chia sẻ thêm kinh nghiệm nhé!

  • Kỹ năng viết Biên bản cuộc họp 議事録

    Khi mới ra trường và bắt đầu đi làm tại công ty, nhiều bạn không khỏi bất ngờ trước tần suất họp dày đặc trong các công ty Nhật. Nhiều buổi họp yêu cầu phải viết lại 議事録(ぎじろく- Biên bản cuộc họp) và nhiệm vụ này thường được giao cho các nhân viên mới. Trong bài viết này, mình sẽ giới thiệu 8 mẹo giúp bạn cải thiện chất lượng của biên bản cuộc họp nhé! Mẹo 1. Lưu tâm 5W2H của cuộc họp 5W2H: Khi nào? ( When ) Ở đâu? ( Where ) Ai là người nói/thực hiện? ( Who ) Nội dung gì? ( What ) Lý do? ( Why ) Làm như thế nào? ( How ) Bao nhiêu? ( How much ) Chỉ cần bạn lưu ý đến các điểm ở trên cũng như cố gắng viết ngắn gọn thì văn bản sẽ dễ đọc và đầy đủ thông tin cần thiết. Mẹo 2. Quyết định cấu trúc và hình thức của biên bản trước cuộc họp Tham khảo bản 議事録 trước đó của công ty để viết theo, tránh việc thiếu hay bỏ sót các thông tin cần thiết cũng như sẽ rút ngắn được thời gian soạn thảo văn bản từ đầu. Ngoài ra bạn cần thống nhất cách viết về giọng văn, về thể câu và cách đặt đầu mục, tiêu đề sau cho logic, có tính hệ thống.  Các bạn có thể cải tiến thêm từ biên bản sẵn có của công ty để có được văn bản tốt hơn nữa. Mình hay tham khảo template từ link: https://template.k-solution.info/16042311290/ Mẹo 3. Tra cứu trước các thuật ngữ chuyên môn Việc không hiểu các thuật ngữ chuyên môn là nguyên nhân chính gây gián đoạn việc ghi chép của bạn trong cuộc họp. Chính vì vậy, bạn nên tra cứu trước các thuật ngữ có khả năng sẽ được sử dụng trong đề tài (agenda) của cuộc họp. Bạn nên tra cứu các thuật ngữ có khả năng sẽ được sử dụng trong đề tài nghị sự của cuộc họp. Việc xem lại các biên bản cuộc họp trước đây cũng sẽ giúp ích cho bạn đó. Nếu trong cuộc họp có thuật ngữ nào bạn không nghe rõ hoặc không hiểu thì nên xác nhận lại ngay trong cuộc họp. Nhưng lưu ý phải khéo léo tìm thời điểm thích hợp để hỏi lại, tránh gây khó chịu cho người phát biểu và làm tốn nhiều thời gian của cuộc họp. Mẹo 4. Ghi chép (メモ) một cách hiệu quả Bạn không cần phải cố gắng ghi chép nội dung cuộc họp một cách nắn nót. Thay vào đó, điều quan trọng là cần làm rõ: Ai đã nói/phát biểu (発言者) Ai là người phê duyệt (承認者) Ai là người chịu trách nhiệm(責任者) v.v. Không chỉ viết về các nội dung được quyết định trong buổi họp, mà bạn cần viết về quá trình đưa ra quyết định đó. Mục đích của 議事録 là tất cả những người có liên quan (bao gồm cả người tham gia và không tham gia buổi họp) đều có thể nắm rõ thông tin về các quyết định được đưa ra, cũng như hiểu đúng về nội dung của buổi họp. Chính vì vậy cần viết súc tích quá trình đưa ra quyết định trong buổi họp như thế nào. Mẹo 5. Viết kết luận trước (Phương pháp PREP) Khi viết biên bản cuộc họp cần lưu ý bố cục: Kết luận → Tóm tắt → Ý kiến ​​(người nói/người phát biểu) → Lết luận. Bằng cách viết phần kết luận trước, người đọc có thể hiểu ngay nội dung. Mẹo 6. Viết ngắn gọn và dễ nhìn thấy những điểm chính Không tóm tắt nội dung mà chỉ ghi y nguyên nội dung trong buổi họp là lỗi mà các bạn nhân viên mới hay bị cấp trên phê bình nhiều nhất khi soạn thảo văn bản.  Nếu bạn xác định được đối tượng của biên bản cuộc họp là ai thì bạn sẽ biết cách để viết làm sao cho dễ hiểu. Ví dụ như lược bớt các đoạn văn không cần thiết, hoặc tùy trường hợp có thể thêm bớt từ hay sử dụng các từ thay thế để diễn đạt ngắn gọn hơn. Mẹo 7. Thống nhất ký hiệu khi đặt tên đầu mục Việc đặt tên đầu mục có tính nhất quán, thể hiện được mối quan hệ lớn – nhỏ (tức là, ý nào là ý con của ý chính) cũng đem lại hiệu quả đáng kể trong việc khiến người đọc cảm thấy dễ nắm bắt nội dung. Mẹo 8. Chỉnh lý(整理)lại nội dung ghi chép trước khi gửi Sau buổi họp, bạn nên dành thời gian để chỉnh lý/sắp xếp (整理) lại các nội dung đã ghi chép (メモ)được trong cuộc họp. Có nội dung nào chưa rõ trong cuộc họp thì cần xác nhận lại người liên quan ngay để bổ sung đầy đủ, tuyệt đối không để tình trạng mơ hồ hoặc lược bỏ mất nội dung đó nếu đó là nội dung quan trọng. Khi vẫn chưa quen soạn thảo loại văn bản này, cần hoàn thành sớm và nhờ senpai check trước. Và cuối cùng là đừng quên… Gửi biên bản cuộc họp đã viết cho sếp/leader của bạn và những người liên quan trong vòng 24h kể từ khi cuộc họp kết thúc. Nếu “ may mắn ” được giao trách nhiệm viết biên bản cuộc họp thì bạn đã biết phải làm thế nào để viết được một biên bản dễ đọc và đầy đủ thông tin rồi phải không nhỉ?

  • Mình đã làm gì trong một nhà xuất bản tại Nhật?

    Công ty đầu tiên tại Nhật mình làm việc sau khi tốt nghiệp là một nhà xuất bản sách. Vậy một người nước ngoài có thể đảm nhận công việc gì trong một nhà xuất bản? Biên tập sách? Chắc là không rồi, vì tiếng Nhật chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Thực ra có khá nhiều công việc trong nhà xuất bản mà người nước ngoài có thể tận dụng lợi thế “toàn cầu hóa” để hoàn thành tốt công việc. 1. Tìm hiểu thị trường và lựa chọn đầu sách (市場調査 • 書籍選定) Công ty cũ của mình chuyên về lĩnh vực kinh doanh/đầu tư và self-help, có cả sách ngoại văn và sách nội địa. Khi mới vào công ty, mình được phân vào nhóm làm sách ngoại văn, tức lựa chọn đầu sách để phát hành tiếp theo sao cho đánh trúng nhu cầu thị trường. Công việc của mình là đọc và tóm tắt điểm nhấn của bất cứ cuốn sách nào mà công ty cho là bán chạy, tìm hiểu đánh giá của thị trường về cuốn sách đó. Là một người nước ngoài, mình không ngại đọc chữ alphabet, và cũng vì từng cày IELTS nên tốc độ đọc lướt cũng nhanh. Mình còn có thể tìm được review về cuốn sách không chỉ từ nguồn trong nước Nhật, mà còn từ các nguồn khác trên thế giới Mình được phân vào nhóm làm sách ngoại văn, tức lựa chọn đầu sách để phát hành tiếp theo sao cho đánh trúng nhu cầu thị trường. Là một người nước ngoài, mình không ngại đọc chữ alphabet, và cũng vì từng cày IELTS nên tốc độ đọc lướt cũng nhanh. Mình còn có thể tìm được review về cuốn sách không chỉ từ nguồn trong nước Nhật, mà còn từ các nguồn khác trên thế giới (ví dụ như báo tiếng Anh, các trang review hay group review tiếng Anh), nhờ đó tăng lượng dữ liệu về đánh giá sách, giúp ích cho việc phân tích nhu cầu từ thị trường. Cũng chính công việc này là khởi nguồn cho công việc hiện giờ của mình. 2. Biên tập nội dung thành video (動画編集 • 作成) Không phải đầu sách nào cũng phát hành dưới dạng sách. Công nghệ và mạng internet khiến cho nhu cầu của người đọc đa dạng hơn, vì thế một số đầu sách cần được truyền tải dưới hình thức video hơn là sách giấy xuất bản. Vì có thể đọc nội dung từ chính tiếng Anh mà không cần phải đợi bản dịch thô, nên mình có thể lên kịch bản chế biến sách ngoại văn cùng các bạn đồng nghiệp mà không gặp rào cản ngôn ngữ quá lớn. Còn bạn thì sao? Bạn có từng muốn thử sức ở lĩnh vực mà mới nghe thì thấy “chỉ có người bản xứ làm được” không? Không có tiền lệ không có nghĩa là bất khả thi, tại sao mình không trở thành người đầu tiên chứ. P/S: Cảm hứng khiến mình muốn làm việc tại nhà xuất bản ở Nhật là cuốn “Thế giới ngầm Tokyo – Tokyo Vice” của Jake Adelstein (đã được dựng thành phim ). Ông là nhân viên đầu tiên không phải người Nhật làm cho báo Yomiuri Shimbun. Mình đã nghĩ, ổng làm được thì mình cũng làm được, cũng có thể trở thành nhân viên không phải người Nhật làm cho nhà xuất bản.

  • Làm thế nào để dung hòa mối quan hệ với đồng nghiệp?

    “Làm thế nào để dung hoà mối quan hệ với đồng nghiệp?” là câu hỏi được nhiều bạn gửi về nhất cho buổi 研修 (đào tạo) dành cho các bạn sắp/mới đi làm mà bên mình tổ chức. Câu hỏi này làm mình nhớ tới một kỷ niệm nhỏ về “mối quan hệ với đồng nghiệp” hồi mình còn làm ở công ty cũ. Giờ đem kể lại với mọi người chút ^^. Từ một task khá đơn giản.. Hồi còn làm việc ở công ty cũ, mình được giao phụ trách tờ báo nội bộ công ty. Báo nội bộ này được xuất bản dạng poster khổ lớn A0, định kỳ 3 tháng 1 lần. Số đầu vì chưa định hình được hình thức, nội dung nên bạn assistant manager cũng tham gia cùng mình. Mọi chuyện rất thuận lợi. Số đầu ra mắt visual ổn, nội dung cũng sáng tạo, vui vui, mọi người trong công ty phản hồi rất tốt. Thấy mọi thứ có vẻ ổn rồi, công việc tuyển dụng nhân viên mới lại vào mùa bận rộn, bạn assistant manager phải đi công tác nên mới bảo mình làm cùng một bạn gái khác bên team văn phòng. (Mình làm trong team nhân sự.) Vấn đề phát sinh từ đây. Vẫn quen theo cách đã làm từ trước, số thứ 2 mình cũng phân chia công việc với bạn gái kia y như thế. Tức là thống nhất ý tưởng chủ đề, lựa chọn nhân vật xong thì chia ra mỗi đứa phỏng vấn một nửa, rồi viết bài, lên layout… Hiềm nỗi bạn gái kia cứ suốt ngày kêu bận, danh sách phỏng vấn mình đã làm xong hết mà bạn ấy vẫn chưa làm gì. Mình bảo làm cái gì bạn ấy cũng thoái thác trong khi ngày sếp duyệt bản thảo càng ngày càng gần. Vẫn quen theo cách đã làm từ trước, số thứ 2 mình cũng phân chia công việc với bạn gái kia, sau khi thống nhất ý tưởng thì chia ra mỗi đứa phỏng vấn một nửa… Nhưng bạn gái kia cứ suốt ngày kêu bận, danh sách phỏng vấn mình đã làm xong hết mà bạn ấy vẫn chưa làm gì…. Một lần, bạn assistant manager đi công tác về, chắc thấy gần đến ngày phát hành nên hỏi mình tiến độ đến đâu rồi. Mình được lời như cởi tấm lòng mà tuôn ra dào dạt một tràng than vãn về bạn nữ kia. Nào là bạn ấy chả hợp tác gì cả, bạn ấy thế nọ thế kia… nói chung vô cùng bức xúc. Bạn assistant manager nghe xong, sau một hồi gật gù đồng cảm với mình thì bắt đầu cười cười rồi bảo: “Mai này, bạn bè ấy mà, không thích không hợp thì có thể không chơi với nhau. Chứ đồng nghiệp thì không phải lúc nào cũng chọn được là muốn làm việc cùng hay không. Trừ khi là Mai bỏ việc. Còn khi làm việc trong một tổ chức thì phải chấp nhận có lúc mình phải làm việc với những đồng nghiệp mà mình không hợp, không thích. Vì đó là sự phân công của công ty. Làm thế nào để phối hợp được tốt nhất trong khả năng của mình với một đồng nghiệp mà mình không hợp cũng là một phần của công việc, và cũng là một kỹ năng cần phải học khi đã là một người đi làm”. Sau đấy, bạn ấy gợi ý cho mình cách làm khác. Thay vì chia nhau theo kiểu có 10 nhân vật mỗi đứa phỏng vấn 5, thì giờ mình quen việc phỏng vấn rồi mình chịu trách nhiệm phỏng vấn hết. Còn bạn nữ kia thạo Photoshop thì để bạn ấy layout, thiết kế rồi kiểm tra lại bản thảo tiếng Nhật của mình. Vì dù gì mình cũng là người nước ngoài viết tiếng Nhật mà. Mỗi người nhịn nhau một tí, công nhận nhau một tí thử xem. Bạn bè ấy mà, không thích không hợp thì có thể không chơi với nhau. Chứ đồng nghiệp thì không phải lúc nào cũng chọn được là muốn làm việc cùng hay không… Còn khi làm việc trong một tổ chức thì phải chấp nhận có lúc mình phải làm việc với những đồng nghiệp mà mình không hợp, không thích. Đúng là dù sau đấy mình vẫn không thấy hợp với bạn kia thêm tí nào nhưng mình cũng vượt qua được kỳ khủng hoảng ấy, thành công ra mắt tiếp số báo thứ 2. Bạn assistant manager sau đấy hình như đã tâm sự nỗi lòng của mình với trưởng phòng nên từ số sau mình được phân làm cùng với một chị khác rất là đáng yêu, nhiệt tình. Làm cùng chị này vui ơi là vui và nhanh hơn bao nhiêu. Tóm lại, đi làm mà gặp được đồng nghiệp hợp gu thì không còn gì bằng. Nhưng nếu có duyên gặp đồng nghiệp không-hợp-gu thì âu cũng là một cơ hội để chúng ta học được nhiều kỹ năng khác. Chẳng hạn như “dĩ hoà vi quý” (tức chết đi được nhưng vẫn có thể nhịn vì mục tiêu chung) và “tìm ra được điểm mạnh của đối phương” (để còn biết mà chia việc hợp lý chứ không lại mắc công tức nhau). Mọi người có công nhận không nào.

  • [E-Learning] Chi tiết những câu hỏi nhà tuyển dụng nhất định hỏi bạn

    Được chọn hay bị từ chối, điều này phụ thuộc rất nhiều vào cách bạn nỗ lực tập luyện giao tiếp, phân tích tình huống và nắm bắt tâm lý nhà tuyển dụng trong buổi phỏng vấn. Vòng phỏng vấn sẽ giúp nhà tuyển dụng đánh giá ứng viên một cách tổng thể, bao gồm: hình thức bên ngoài, ngôn ngữ hình thể, tính chuyên nghiệp, trình độ học vấn, kỹ năng chuyên môn, kinh nghiệm, thái độ, động cơ làm việc, kỹ năng giao tiếp,…  Là một ứng viên, ta nên chuẩn bị những gì? Tác phong thế nào sẽ để lại ấn tượng tốt? Chủ đề nào thì nên nói gì và nói như thế nào? Chắc hẳn đây là những thắc mắc mà nhiều bạn đang gặp phải.  Hãy cùng tìm hiểu 4 dạng câu hỏi thường gặp trong vòng phỏng vấn cá nhân nhé! 1. Câu hỏi chung  Câu hỏi chung là dạng câu hỏi cơ bản về ứng viên. Với câu hỏi này, nhà tuyển dụng muốn hiểu rõ hơn về con người bạn. Những câu hỏi điển hình ở phần này như: Bạn là ai, bạn học ngành gì, có sở thích cá nhân đặc biệt nào không? Câu hỏi chung được ví như “Miếng trầu làm đầu câu chuyện”, giúp cuộc phỏng vấn được tự nhiên hơn.  Để có một khởi đầu thật ấn tượng, bạn nên có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Việc này sẽ giúp bạn giữ được sự bình tĩnh, tự tin, và ghi điểm lớn trong mắt nhà tuyển dụng.  2. Câu hỏi về trải nghiệm cuộc sống Sau khi hai bên đã cảm thấy thoải mái với bầu không khí, nhà tuyển dụng sẽ tìm hiểu kĩ hơn về kinh nghiệm của ứng viên thông qua dạng câu hỏi về các trải nghiệm thực tế. Đây là loại câu hỏi đánh dấu bước chuyển, từ phần thông tin cá nhân sang kinh nghiệm làm việc và hoạt động ngoại khóa đáng chú ý đã được trình bày trong hồ sơ xin việc. Thay vì lặp lại những gì đã ghi trong CV, nhà tuyển dụng sẽ đánh giá và tìm hiểu sâu hơn các đặc điểm quyết định sự phù hợp của ứng viên. Một câu hỏi tiêu biểu có thể kể đến đó là: Những khó khăn mà bạn đã gặp phải trong học tập/công việc/cuộc sống và làm thế nào để vượt qua khó khăn đó. 3. Câu hỏi xử lý tình huống Xử lý tính huống là dạng câu hỏi nhằm đánh giá sự nhạy bén, tinh tế cũng như phong cách làm việc của ứng viên. Đây thường là những câu hỏi hóc búa nhất trong buổi phỏng vấn. Đối với dạng câu hỏi này, ứng viên nên dành thời gian suy nghĩ để có thể đưa ra ý tưởng. Nhà tuyển dụng thường yêu cầu một câu trả lời có chất lượng chứ không phải một ý kiến chỉ để lấp đầy khoảng trống. Hãy liên tưởng và kết nối tình huống đang gặp phải với một tình huống tương tự trong cuộc sống để đưa ra một cách giải quyết hiệu quả nhất. 4. Câu hỏi đuổi Những câu hỏi đuổi thường được sử dụng để vặn lại câu trả lời của ứng viên. Đây là cách nhà tuyển dụng nhận biết đâu là sự thật và đâu là lời nói dối. Câu hỏi đuổi cũng giúp công ty không lầm tưởng về khả năng cũng như kinh nghiệm của ứng viên. Để chuẩn bị tốt cho phần này, bạn có thể lên danh sách những câu trả lời cho câu hỏi giả tưởng mà nhà tuyển dụng có thể hỏi. Từ những câu trả lời mẫu, ứng viên có thể sắp xếp một cách khoa học các thông tin để tạo thiện cảm cho phỏng vấn viên.   5. Nếu vậy thì, bạn nên luyện tập như thế nào? Chủ đề 5 là công cụ hữu ích giúp các bạn có một buổi phỏng vấn thành công. Với 4 tình huống thực tế, tài liệu đưa ra các dạng câu hỏi “không theo mẫu” mà ứng viên có thể gặp trong buổi phỏng vấn. Với mỗi ví dụ là câu trả lời tham khảo được phân tích cụ thể.  Một lời khuyên nữa là bạn hãy cố gắng “tưởng tượng”, suy nghĩ xem với các vấn đề bạn đưa ra, nhà tuyển dụng có khả năng hỏi ngược lại bạn những gì. Bằng điều này bạn có thể chuẩn bị tốt nhất cho những tình huống câu hỏi bị động trong buổi phỏng vấn.  6. Chuỗi sản phẩm E-Learning – Chìa khóa tìm việc thành công tại Nhật Được ví như cuốn cẩm nang dành cho người ít kinh nghiệm tìm việc tại Nhật Bản, bộ sản phẩm E-Learning gồm các video và tư liệu nhằm giới thiệu và giải thích những nội dung cần thiết nhất, đồng thời cung cấp công cụ hữu ích được tổng hợp từ kinh nghiệm thực tế của cộng đồng người Việt Nam hiện đang làm việc tại Nhật Bản.  Tải xuống tài liệu tại:

  • Kinh nghiệm thi IT Passport

    Là một người xuất thân từ khoa Công nghệ thông tin của Đại học Bách Khoa, trong khi các bạn đã và đang thi AP, AWS, v.v. thì mình mới chỉ lấy được IT Passport (IP). Cũng vì ngày xưa không nghĩ sẽ làm IT nên mải mê kiếm tiền, không chịu đi học nên bây giờ nghiệp vả không trượt phát nào.  Bạn có thể xem đây là bài chia sẻ của một bạn xuất thân bunkei – khối xã hội. Hy vọng sẽ giúp được cho những bạn cần tìm hiểu.  1. Đánh giá tổng quan Nhiều người nhận định rằng IP là cấp bậc cơ bản của các chứng chỉ liên quan đến IT tại Nhật, sau đó là FE, v.v. Tuy nhiên, mình cho rằng điểm khác của các kỳ này là đối tượng mà nó hướng đến.  Với FE, cấu trúc đề thi có đến 70% các câu hỏi liên quan đến kỹ thuật, còn lại 30% bao gồm các câu hỏi về chiến lược và quản lý. Trong khi đó, tỷ lệ câu hỏi giữa các phần được phân chia đồng đều trong đề thi IP. Có thể thấy rằng, những kiến thức liên quan đến chiến lược và quản lý được chú trọng nhiều hơn ở chứng chỉ IP.  Chứng chỉ IP phù hợp với những bạn làm các vai trò tổng quan như khối văn phòng, sales, comtor, hay những bạn muốn phát triển lên các vị trí như Business Analyst, Consultant, CSM, v.v, những vị trí phải tiếp xúc nhiều với khách hàng, hay hỗ trợ Project Manager để chạy dự án suôn sẻ hơn. 2. Kiến thức của IT Passport  Dải kiến thức của kỳ thi này được chia thành 3 nhóm chính:  ① 戦略 (Chiến lược – Strategy) Phần này có cảm giác như mình được học để trở thành 1 CEO, điều hành 1 tổ chức với những kiến thức căn bản về doanh nghiệp,  ví dụ như:  Các định nghĩa nền liên quan đến doanh nghiêp  Các phương pháp phân tích dữ liệu để hoạch định chiến lược  Các khái niệm liên quan đến tài nguyên trong doanh nghiệp và các thuật ngữ liên quan Kiến thức cơ bản về sales, về marketing, v.v. ② 管理 (Quản lý – Management) Phần này gần giống như mình sẽ đóng vai 1 PM và học về các khái niệm liên quan đến quá trình thực hiện dự án. Vì đây là kiến thức quản lý dự án căn bản nên có thể áp dụng với bất kì dự án nào.  Một số khái niệm bạn sẽ gặp trong phần này như:  要件定義 Định nghĩa yêu cầu システム設計 Thiết kế hệ thống (内部設計・外部設計) リスク管理 Quản lý rủi ro  PDCA (Plan Do Check Action)  ③ 技術 (Kỹ thuật – Technical) Với những ai chưa học ITP và non-tech thì thường nghĩ đây là phần khó nhất. Nhưng thật ra, kiến thức kỹ thuật của ITP khá là căn bản, đa phần là “cưỡi ngựa xem hoa” và nhiều nội dung gần gũi với cuộc sống nên không khó như tưởng tượng.  Mình thấy phần này toàn lý thuyết, học thuộc là được. Còn các kiến thức liên quan đến giải thuật, tính toán, v.v. tương đương với toán cấp 2. Có lẽ điểm khó nhất là dịch được đề và áp dụng công thức vào tính toán.  Lúc mình thi, mình vứt luôn 1 câu phần này vì quên mất công thức tính… tổ hợp. 3. Cách thức thi  Bài thi ITP làm trên máy tính tại địa điểm thi (Computer-Based Testing).  Cấu trúc đề thi  Đề thi có 100 câu hỏi làm trong 120 phút , được chia làm 3 phần (như đã giới thiệu ở trên), bao gồm:  35 câu hỏi về chiến lược  20 câu hỏi về quản lý 45 câu hỏi về kỹ thuật  Cách tính điểm Mỗi câu hỏi sẽ có số điểm khác nhau. Để đỗ chứng chỉ IP, bạn phải đạt được 600 điểm trở lên và không phần nào dưới 300.  Đăng ký thi: Online – Lệ phí thi 5700¥ (mình không biết ở VN đăng ký như thế nào) Lưu ý  Ở Nhật, kỳ thi IP được tổ chức hàng tháng. Tuy nhiên, vì số lượng người đăng ký dự thi lớn, bạn nên đăng ký trước khoảng 2 tháng để giữ chỗ. Ở Việt Nam, kỳ thi này chỉ được tổ chức 2 lần, vào tháng 4 và tháng 10 hàng năm. Đề thi bằng tiếng Anh với bản dịch tiếng Việt level Google Translate.  4. Cách thức ôn tập  Dưới đây là các tài liệu mình sử dụng:  ① 令和2年いちばんやさしいITパスポート – 絶対合格の教科書  ② ITパスポート過去問題集かんたん合格. (Mình không tiến cử quyển này vì số bài ít, dù giải thích kết quả khá cặn kẽ. Thay vào đó, bạn có thể dùng app ITパスポート có icon là IT 2021 パスポート màu xanh đậm sẽ có nhiều bài để ôn hơn) Đánh giá cá nhân  Nội dung của sách được viết đơn giản, giải thích dễ hiểu, tuy nhiên, sẽ phù hợp hơn với bạn nào đã đi làm và trực tiếp trải nghiệm các nội dung đó. Với những bạn sinh viên hoặc chưa có kinh nghiệm làm ở công ty IT sẽ khá khó để có thể hình dung nếu không có người hỗ trợ.  Ngoài ra, kiến thức trong 2 cuốn này chỉ đủ để đỗ – không thể đỗ được điểm cao. Đề thi cập nhật theo trend, như lần mình thi, nội dung liên quan đến security và IoT ra rất nhiều. Bên cạnh đó, đề thi còn có câu hỏi liên quan đến đối sách của chính phủ Nhật, nếu không đọc tin tức về lĩnh vực này sẽ không thể làm được. Kinh nghiệm đi thi thực tế Thật ra mình đi thi khi đang đứng 1 lớp dạy ITP cho các bạn muốn chuyển việc. Vì vậy, trước khi đi thi, các kiến thức trong sách đã được mình xào đi xào lại cỡ 4 ~ 5 lần. Cộng thêm việc mình làm khá nhiều vị trí trong công ty nên khá tự tin sẽ đỗ. Vậy nhưng lúc làm bài thi, mình cũng chỉ làm được khoảng 80% vì có những khái niệm mình không gặp trong sách hay trong công việc, và do kiến thức trải rộng nên đôi chỗ mình đã bị quên.  P/s: Đây là cách mình áp dụng khi ôn thi – dạy cho người khác. Bởi khi dạy, mình phải giải thích cho người ta hiểu thì mới gọi là nắm được chắc, kết quả khi thi là kết quả thật chứ không phải ăn may đánh bừa mà qua. Thật ra thì mình lười học, mở một lớp rồi vừa dạy, vừa trao đổi với người khác thú vị hơn nhiều. (Một lần nữa, đây là suy nghĩ cá nhân, mong các bạn không để tâm quá nhiều.) 5. Các câu hỏi liên quan  ※ Mất bao lâu để học xong? Nội dung sách ① gồm 15 chương. Mình chia 1 chương học trong 3 buổi, mỗi buổi 1.5 tiếng, trong đó có 2 buổi đầu học lý thuyết, buổi thứ 3 chữa bài tập liên quan. Nếu ngày nào cũng giữ được tốc độ 1.5 tiếng như vậy thì chỉ cần gần 2 tháng là có thể hoàn toàn học hết nội dung của 2 quyển kia.  ※ Nên tự học hay nên học theo lớp? Hoàn toàn có thể tự học được. Như đã nói ở trên, kiến thức toàn những cái căn bản. Cái khó của IP là nhiều thuật ngữ và nhiều nội dung mà nếu không đi làm trải nghiệm thực tế trong công việc thì không hiểu được. Với những bạn sinh viên hoặc từ các ngành không liên quan thì mình khuyên các bạn nên tìm một người hướng dẫn.  ※ Trong quá trình học có những khó khăn gì?  Cá nhân mình thấy khó khăn nhất là khó giữ được động lực. Càng có tuổi càng có nhiều yếu tố ngoại cảnh tác động. Chẳng hạn như, bạn đang học hăng say thì gặp chỗ khó, lúc đấy chỉ muốn “đốt sách” và đi ngủ. Tuy nhiên, IP cho mình cảm giác học thích hơn là học JLPT. Lý do là vì, các kiến thức của IP cần thiết, gắn liền với công việc nên tạo được hứng thú. Dù công ty mình không bắt ép nhân viên phải có chứng chỉ này, nhưng đây là lần đầu tiên mình nghiêm túc học 1 chứng chỉ gì đó vì thích như vậy.  Một lần nữa, hy vọng bài viết của mình giúp được ai đó.  **Một số từ chuyên ngành được sử dụng trong bài viết: AP (Applied Information Technology Engineer Examination), AWS (Amazon Web Service), IT Passport (IP), FE (Fundamental Information Technology Engineer Examination), CSM (Customer Success Management).

  • Học ăn học nói học gói mang về

    Nhân chuyện ngồi viết sớ xin lỗi khách hàng vì những chuyện không phải do mình gây ra, Kôi tự nghĩ sao không lập một chủ đề như thế này để mọi người chia sẻ với nhau chuyện làm thế nào để giao tiếp tiếng Nhật tốt hơn? Kôi xin đưa ra một vài tips cá nhân trước. Những mẹo này đã giúp Kôi cải thiện được ít nhiều nên hy vọng sẽ có hiệu quả với các bạn đang cần. Ngược lại, cũng mong các cao thủ trong cõi này xông vào chủ đề này, vừa góp vui vừa chia sẻ kinh nghiệm cho toàn thể anh em ở đây. Let’s GO!!!!  Tip: Uốn lưỡi 7 lần trước khi nói, quay tay đủ 9 vòng trước khi gõ phím.  Trường hợp 1: NHỜ VẢ  Thường khi muốn ai đó làm cái gì cho mình, chúng ta thường dùng cách nói:  (1) Động từ てください。 Xịn xò hơn thì sử dùng kính ngữ. (2) お/ご danh từ ください。  Thường nếu dùng cách (1) sẽ gây cảm giác là đang ra lệnh và người nhận cũng sẽ không cảm thấy không vui vẻ gì. Nếu đặt mình vào vị trí của người tiếp nhận/ người nghe để nghĩ, chắc hẳn ai cũng mong muốn được người khác nhờ vả bằng các câu nói thủ thỉ, có đôi chút năn nỉ hơn. Vì thế, Kôi hay dùng cách nói thiên về hỏi han, nài nỉ hơn là ra lệnh. Đây là những cách Kôi hay dùng.  1. Với người trong cùng công ty, không cần lịch sự lắm . ご確認をお願いします。 Câu này Kôi rất hay dùng với anh sếp người Nhật. Dù biết 上下関係 (quan hệ trên dưới) trong công ty trật lất rồi nhưng anh ấy còn mặc hẳn quần đùi để tiếp khách nên Kôi không thể dùng kính ngữ để nói chuyện với anh được.  2. Với khách hàng, cần phải lịch sự. Lúc này tùy tâm trạng có mỏi tay, mỏi miệng hay không mà sẽ nói câu dài hay câu ngắn. Ví dụ nhé. ご確認を頂ければと思います/存じております。 ご確認いただけませんでしょうか。 ご確認いただけますと、(大変)幸いです/ありがたいです/幸甚でございます。 Sau đây là combo dài loằng ngoằng thể hiện mình nhiều chữ nhưng khuyến khích các anh chị kỹ sư không nên dùng. Kỹ sư cầu nối làm việc trong dự án thì nên ưu tiên trình bày rõ ràng, mạch lạc hơn là nói dài dòng lan man. お忙しいところ恐縮ですが/お手数をおかけてしまいす恐れ入りますが、ご確認くださいますようお願い申し上げます。 Trường hợp 2: TỪ CHỐI  Nhiều khi phía khách hàng sẽ yêu cầu một vài chuyện “trên trời” nhưng chúng ta là những con người bình thường chứ nào phải siêu nhân, nên thực tế có nhiều thứ ta không thể làm được. Khi ấy, chắc nhiều người sẽ nói như thế này. ○○ができません。 hay    ○○が難しいです。 Lịch sự hơn vẫn là kính ngữ. ○○が不可能です。 hay   ○○しかねます。 Nhưng theo Kôi, từ chối cũng nên “lươn lẹo” một tí vì rất có thể bây giờ thì mình tránh nhưng tới lần sau mình lại phải theo cho bằng được. Và đây là vài cách Koi hay dùng. Tùy vào mức độ bất – khả – kháng mà Koi sẽ lựa chọn từ chối thẳng hay chối khéo. 1. Từ chối khéo. 開発費用は開発費用は工数により、異なりますので、   現時点詳細見積は提出しかねます。   ご了承くださいますようお願いいたします。 ○○件について、   現在の仕様によると、   100万円で開発するのが困難になるかと想定しております。   もしより詳しい仕様及びサンプルデータを頂ければ、   適切なソリューションを提案させていただきます。 2. Từ chối thẳng. ○○件について ○○のため、見送りさせていただきます。  ○○のため、お断りさせていただきます。 Sau đó thêm vào vài dòng “mải thao” (là thảo mai đó Ahihi) せっかくご紹介せっかくのご紹介をいただき、大変心苦しいのです。次の機会を楽しみにしております。 Trường hợp 3: XIN LỖI  Trường hợp này rất hay dùng. Mà Kôi thì rất cay cú vì toàn đi xin lỗi hộ những gì mình không gây ra. Ví dụ team estimate (ước tính) thiếu, team misunderstanding (hiểu lầm), team bàn giao chức năng muộn… Câu xin lỗi thì chắc mọi người cũng nắm được nhiều, thường là:  すみません。 Lại thêm vài câu kính ngữ hay dùng.  失礼いたしました。  申し訳ございません/申し訳ございませんでした。  Bổ sung thêm mấy câu văn vở.  ○○の件、大変お待たせいたしました。  深くお詫び申し上げます。 ご迷惑をおかけてしまい、大変○○ 何度も/度々大変失礼いたしました。  Nhưng vấn đề là xin lỗi xong rồi để đó là không được. Đứng trên lập trường của người được xin lỗi thì người ta sẽ quan tâm đến biện pháp khắc phục hơn là mấy câu nói dài dòng, rắc rối kia. Vì thế, sau khi xin lỗi xong phải đưa ra giải pháp.  Đây là một vài câu thể hiện giải pháp mà Kôi thường sử dụng.  今後同じミスを繰り返さないよう十分留意いたします。  今後同じようなことが起こらないよう対応して参ります。 今後このようなことがないよう早急に対策強化を進める所存でございます。 Nhưng Kôi vẫn luôn tâm niệm, trong giao tiếp yếu tố tiên quyết là chân thành. Mấy câu dài dòng ở trên thường được dùng khi viết mail, còn trong dự án khi xảy ra các vấn đề mà kỹ sư cần xử lý gấp nên ưu tiên hình thức ngắn gọn và đưa ra được giải pháp cụ thể để khắc phục vấn đề.  Ví dụ: ○○件について、   「ほうれん草」をせず、勝手に行動して、   被害を与えてしまったこと、大変申し訳ございません。   今後同じミスが起こらないように、   チームワークのルールを設定して、徹底的に守るようにいたします。  ○○件について   説明不足で、違和感を与えてしまったこと、   大変申し訳ございませんでした。   再度文面にて説明させていただきます。 ○○件について   大変お待たせいたしました。   今後早急に対策するようチームに注意いたします。  3 trường hợp với 1 tip như trên cũng khá dài rồi nhỉ.  Tóm lại, khi giao tiếp bạn cần lưu ý 4 điểm sau:  Đối phương là ai để dùng cách nói phù hợp.  Xuất phát điểm là sự chân thành để không chỉ đơn thuần là lời nói hay dòng chữ mà còn thể hiện được cả cảm xúc của mình trong đó. Không nhất thiết phải dài dòng văn tự , tùy từng vai trò, hoàn cảnh hãy chọn cách hành văn sao cho phù hợp.  Khi trình bày, ưu tiên ngắt nghỉ đúng chỗ . Như vậy, người nghe sẽ không chán, xuống dòng đúng nơi thì người đọc sẽ không tẩu hỏa nhập ma khi phải nhìn một tràng giang kí tự.

  • Review Kỳ thi lấy chứng chỉ phiên dịch y tế 医療通訳技能検定試験

    Mình xin phép review về kỳ thi lấy chứng chỉ phiên dịch y tế mà mình đã thi vừa rồi. Hy vọng các bạn đang quan tâm tới việc học thêm chứng chỉ để có thêm cơ hội công việc ở Nhật, cũng như các bạn yêu thích và quan tâm tới tiếng Nhật trong ngành y tế sẽ có thêm một chút thông tin tham khảo. Kỳ thi mà mình đã tham gia có tên là 医療通訳技能検定試験 (Kỳ thi kỹ năng phiên dịch ngành y tế) . Kỳ thi do日本医療通訳協会 (Hiệp hội phiên dịch Y tế Nhật Bản) tổ chức định kỳ 2 lần/năm với nhiều thứ tiếng, trong đó phổ biến nhất là Anh – Nhật và Trung – Nhật. Kỳ thi tiếng Việt cũng mới được tổ chức dạo gần đây và đây là lần đầu tiên mình tham gia. Chi tiết các bạn có thể xem tại đây: http://gi-miaj.org/test 1. Lý do dự thi Hiện tại, mình đang tham gia làm nội dung cho trang về y tế Nhật Bản là Japan Medical Gate . Mọi người trong team đều đã có kinh nghiệm làm việc trong ngành y nhiều năm. Mình muốn nhân cơ hội này học thêm về y tế để có được nền tảng kiến thức và tiếng Nhật tốt hơn để hỗ trợ được mọi người tốt hơn nữa. Một số bệnh viện ở Nhật hiện cũng đã bắt đầu yêu cầu phiên dịch đảm nhận các ca dịch tại bệnh viện phải có chứng chỉ phiên dịch y tế. Do đó, mình cũng muốn chuẩn bị trước để biết đâu sau này có dịp lại cần dùng. Đây cũng là một dịp hay để mình có động lực học hành hơn, kiểm chứng lại xem năng lực của mình đến đâu, chứ nhiều khi ở nhà tự sướng lại dễ bị ảo tưởng sức mạnh. 2. Cấu trúc kỳ thi Vòng 1: Thi viết (筆記試験) Thời gian thi: 120 phút. Thi viết gồm 12 bài lớn, trong mỗi bài lại có khoảng 10 câu nhỏ. Ngoài ra còn có phần thi viết tay. Kết quả thi vòng 1 được phân thành 2 cấp: cấp 2 (bài thi đạt 70 điểm trở lên) và cấp 1 (bài thi được 80 điểm trở lên). Vòng 2: Thi vấn đáp(ロールプレイ) Những ai thi đỗ vòng 1 mới được thi tiếp vòng 2. Thí sinh đạt cấp 2 ở cả hai vòng (bài thi vấn đáp đạt 70 điểm trở lên) thì sẽ được công nhận 医療通訳2級, tức là có khả năng dịch được các trường hợp 健康診断・検診 (khám sức khỏe tổng quát). Thí sinh đỗ cấp 1 ở vòng 1 nhưng vòng thi roleplay chỉ được cấp 2 thì kết quả cuối cùng cũng vẫn chỉ được công nhận là 医療通訳2級. Thí sinh đỗ cấp 1 ở cả hai vòng (thi vấn đáp đạt 85 điểm trở lên) thì mới được công nhận 医療通訳1級. Tức là có khả năng dịch được cả những trường hợp bệnh nặng 重症の病気に対応できるレベル. Đợt vừa rồi mình mới qua vòng 1 thi viết, đỗ ở mức điểm cấp 2. Lần thi tiếp vòng 2 thi vấn đáp mà mình đạt cấp 2 trở lên thì mới có chứng nhận 医療通訳2級. Còn nếu trượt thì tới kỳ thi lần sau mình phải thi lại vòng vấn đáp lần nữa, thi tới khi đỗ thì mới được chứng nhận. Trong lần thi kế tiếp sau đó thì được miễn kỳ thi viết. 3. Review Vòng 1: Thi viết Giờ mình đi vào review phần thi viết nhé. Trước khi đi vào review chi tiết thì mình xin nói qua về background của mình khi thi chút để mọi người dễ hình dung. Mình học thuần kinh tế từ đại học tới cao học, công việc từ khi ra trường không liên quan nhiều tới biên phiên dịch. Về y tế, hầu hết kiến thức là do mình tự đọc tự tìm hiểu vì sở thích và do thói quen. Lần sinh đứa thứ 2 mình phải nhập viện dài ngày nên thời gian ở bệnh viện lâu. Lúc sinh đứa đầu mình doạ sinh non nên nhập viện khoa sản 70 ngày, cũng tìm hiểu khá kỹ về mảng y tế mảng khoa sản…Từ đấy mình hình thành nên thói quen hay đọc về y tế. Tiếng Nhật của mình là trình độ cấp 1 tương đương N1 bây giờ, khả năng đọc hiểu cũng khá. Hồi xưa thi tiếng Nhật mình làm phần đọc hiểu toàn thừa 50% giờ. Đây cũng là một lợi thế giúp mình đợt này đọc hiểu đề thi được tốt hơn. Do vấn đề bản quyền nên mình không thể chia sẻ đề thi lên đây được, bạn nào quan tâm và muốn biết rõ hơn về nội dung thi thì có thể đăng ký mua 過去問 (đề thi cũ) các năm trước nhé. Đề thi cũ được Hiệp Hội bán thông qua công ty WAP, SĐT 03-5447-8808 hoặc website https://a-wap.com/test/ . 3. Nội dung kỳ thi Dù tên kỳ thi là Kỹ năng phiên dịch y tế nhưng bài thi thì không chỉ có dịch thuật, mà còn kiểm tra khá kỹ cả kiến thức về y tế nữa. Để mọi người hình dung rõ hơn thì mình sẽ nói qua về các phần thi một chút. Bài thi thường gồm các phần: 3.1. Giải phẫu cơ thể Ví dụ, đề bài cho hình vẽ các bộ phận của tim/mắt/tai và đánh dấu khoảng 10 chỗ, và yêu cầu hãy trả lời tên bộ phận bằng tiếng Nhật là gì… Câu này thì không phải viết tay, mà đề sẽ cho sẵn từ rồi yêu cầu thí sinh chọn trong danh sách và điền vào. Cái này thì phải học hết các hình vẽ giải phẫu và tên tiếng Nhật + tiếng Việt, nếu không sẽ không trả lời được. Như năm nay mình học là mình cũng học hết từ tim, tai, mắt đến cơ quan nội tạng, cơ quan tiêu hoá, xương sọ, não v..v các kiểu theo đề cương luyện thi của WAP ^^. Các bạn đăng ký thi qua WAP năm nay đều được tham gia group ôn thi và được công ty hỗ trợ tài liệu các phần. 3.2. Phần yêu cầu dịch từ lẻ Có danh sách khoảng 20 từ, trong đó 10 từ tiếng Nhật và 10 từ tiếng Việt. Yêu cầu dịch chéo sang ngôn ngữ còn lại. Cái này năm nay mình thi thì không phải chọn từ danh sách mà là tự nghĩ ra từ tương ứng rồi tự viết tay câu trả lời vào bài. Làm cuối giờ cũng hơi có tí hốt hoảng suýt thì bỏ cả bài, may sau cũng định thần nhớ ra được kha khá. Phần này thì không có đề cương, chủ yếu dựa trên vốn từ thực tế. Ai hay đi dịch hoặc làm liên quan tới ngành y thì chắc lợi thế hơn. Như mình thì may cũng hay đọc báo, tài liệu, bài viết về y tế nên cũng nhớ được khá nhiều. 3.3. Trắc nghiệm đúng/sai về kiến thức y tế Nội dung này bao gồm nhiều mảng, như hỏi về chức năng các bộ phận trên cơ thể, về các loại xét nghiệm, triệu chứng các loại bệnh v..v…. Chẳng hạn có câu như thế này, điền chọn đúng hay sai? Ví dụ: ホルター心電図検査とは、24時間ホルターを装着し、日常に起きる心臓の異常を調べる検査である (Máy đo điện tim Holter được dùng để theo dõi nhịp tim liên tục trong vào 24 giờ, đúng hay sai?) 右心室の壁が左心室より厚いのは心臓から全身へ血液を送り出すので、筋層が発達しているからである。(Thành của tâm thất phải dày hơn và lớp cơ phát triển tốt hơn tâm thất trái vì nó bơm máu từ tim đi khắp cơ thể, đúng hay sai?) Phần này yêu cầu bạn phải có kiến thức nền nhất định về các loại bệnh, các cơ quan trong cơ thể cũng như khả năng đọc hiểu tiếng Nhật. Ví dụ khi học về tim thì ngoài hình giải phẫu tim với các vị trí của các van tim, các động mạch… bạn phải tra cứu thêm về cấu tạo và chức năng của từng van, từng động mạch… thì mới làm được bài. Năm nay mình thi còn có một phần gồm list hơn 10 từ tiếng Việt chỉ bộ phận, tên bệnh… sau đó là khoảng 10 câu miêu tả 1 đặc điểm, triệu chứng bệnh nào đó cũng bằng tiếng Việt rồi yêu cầu ghép vào với nhau. Cái này thì vì là tiếng Việt nên chỉ cần có kiến thức y tế là được. 3.4. Chế độ bảo hiểm, hệ thống y tế Nhật, đạo đức của người phiên dịch Bài thi có cả phần hỏi về chế độ bảo hiểm của Nhật, hệ thống y tế Nhật và một bài riêng về đạo đức của người phiên dịch y tế + các skill của nghề phiên dịch… Rất may phần này thì trong đề cương của WAP cũng có khá kỹ nên chỉ cần chăm chỉ học theo thì cũng làm được khá nhiều. 3.5. Dịch đoạn văn từ Việt sang Nhật Phần khó nhất và cũng liên quan tới dịch thuật nhất, chính là phần dịch đoạn văn từ tiếng Việt sang tiếng Nhật. Có năm còn có hẳn 2 bài dịch, 1 bài Nhật – Việt và 1 bài Việt – Nhật. Năm nay mình thi chỉ có 1 bài thôi, không thì có khi mình cũng chả làm hết được. Đề thi năm nay là yêu cầu dịch 1 đoạn văn khoảng hơn 10 dòng nói về bệnh hẹp van tim, các triệu chứng và lưu ý,… Phần dịch này với ai không quen dịch theo mình nghĩ là khá khó. Cá nhân mình cũng hay dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt hơn, nhưng may là do hay đọc tài liệu nhiều và khi đọc mình cũng hay chú ý cách dùng từ, hành văn của văn bản gốc nên may vẫn dịch được hết cả 10 câu + viết tay bài ra giấy trong 30 phút cuối giờ. Phần này mình thấy nhiều bạn thi cùng, kể cả mấy em làm điều dưỡng theo EPA cũng kêu khó và không làm hết. Mình nghĩ cái này phụ thuộc nhiều vào việc mình quen dịch hay đọc tài liệu nhiều tới mức nào. 4. Phương pháp ôn thi Lúc gần sát thi mình cũng thấy khá khủng hoảng do học trước quên sau…Sau mình mới nhận ra là nếu chỉ đọc tài liệu mà không áp dụng vào đề thi làm thử, thì mình sẽ không biết rõ là cần đọc thêm cái gì khi học về từng phần. Tổng cộng thời gian mình ôn tử tế là khoảng 3 tuần trước khi thi. Mỗi tối mình ôn tầm 1-1.5 tiếng, hôm nào chăm chỉ thì 2 tiếng. Cũng có hôm mệt quá thì mình chỉ đọc lướt qua rồi đi ngủ. Tài liệu mình ôn chủ yếu theo bộ tài liệu của WAP cung cấp. Ngoài ra, mình cũng google thêm để đọc kỹ hơn những đoạn cần thiết, hoặc những phần trong đề năm cũ hỏi mà đề cương lại không đề cập tới. Lúc gần sát thi mình cũng thấy khá khủng hoảng do học trước quên sau. Rõ ràng đọc đề cương rồi mà lúc làm thử vào đề vẫn thấy như mới. Sau mình mới nhận ra là nếu chỉ đọc tài liệu mà không áp dụng vào đề thi làm thử, thì mình sẽ không biết rõ là cần đọc thêm cái gì khi học về từng phần. Vì thế, tầm 5 ngày cuối mình luyện lại đề cũ rồi đọc thêm về các kiến thức mà đề hay triển khai, nên sau cũng cảm thấy đỡ mông lung hơn nhiều. Chứ thú thật lúc mới ôn một tuần đầu mình cảm giác chỉ muốn bỏ thi quách cho xong vì… lắm thứ phải học quá. Nếu cho mình làm lại thì có lẽ mình sẽ học hành sớm hơn, khoảng 2 tháng trước khi thi gì đó. Chứ mình học 3 tuần như vậy mà lúc vào phòng thi cũng phải đuổi hình bắt chữ một số đoạn, đề thi 2 tiếng mà mình cũng làm vừa vặn hết thừa đúng 3 phút cuối giờ để soát thôi. Vậy nên nếu ai xác định thi nghiêm túc để lấy chứng chỉ thì mình nghĩ nên học sớm và mua đề thi cũ về nghiên cứu trước. Còn bạn nào muốn thi mà đọc phần mình viết ở trên thấy hốt quá thì …đừng sợ, đến thi JLPT mà còn nhiều người thi 2-3 lần mới đỗ mà. Mình cứ đăng ký thi rồi học rồi thi cọ xát vài lần cho chắc kiến thức mình nghĩ cũng hay. Quan trọng là việc đăng ký và đi thi giúp mình nghiêm túc với việc học hành hơn, và việc ôn thi cũng giúp mình củng cố thêm nhiều kiến thức hơn. Thôi đấy, bảo review nhanh mà cuối cùng lại thành dài quá rồi. Mọi người ai quan tâm tới kỳ thi có thể theo dõi các bài đăng hướng dẫn về kỳ thi trên group Cùng học tiếng Nhật y tế để theo dõi thêm các thông tin về kỳ thi cũng như các lớp luyện thi sắp tới nhé.

  • Sales B2B ở công ty thuần Nhật: Bạn có thật sự là một người bán hàng đúng nghĩa?

    Chào mọi người! Mình là Thủy, tên thường gọi là Ton. Mình tốt nghiệp đại học APU (Ritsumeikan Asia Pacific University) ngành Quản Trị Quốc Tế, có kinh nghiệm làm Sales B2B hơn 7 năm cho Hitachi và Gartner tại Nhật và Singapore. Từ 2017 mình có đầu tư cho một số startup công nghệ và giáo dục ở VN, nên cuối 2018 mình đã quay lại Nhật thành lập một pháp nhân để thuận tiện kết nối giữa hai nước và làm xúc tiến thương mại. Thú thật là cũng như hầu hết mọi người, hồi đi xin việc mình nhắm đến các tập đoàn lớn, đặc biệt là các Keiretsu (系列) vì những lý do chính dưới đây: Các công ty này đã quen với việc tuyển người nước ngoài. So với SME (Small and Medium-sized Enterprises – các công ty vừa và nhỏ), cơ sở vật chất và đãi ngộ có thể tốt hơn. Công ty mà nhiều người biết tới thì nghe sẽ hoành tráng hơn, bố mẹ ở VN đi khoe cũng dễ hơn. Kết quả là mình chọn vào Hitachi, bộ phận bán hàng thị trường quốc tế, chuyên mảng sản phẩm phần cứng. Hầu hết các công ty như Hitachi đều có chế độ thực tập 2 năm, một năm tại nhà máy để làm quen với sản phẩm và 1 năm OJT (on job training – vừa làm vừa học). Vào thời điểm đó mình bị điều xuống Toyama, ở một vùng khỉ ho cò gáy đúng nghĩa (vì nhà máy chất bán dẫn rất độc hại nên phải xây xa khu dân cư, giữa rừng). Do chỉ có 1 mình mình là con gái, nên cty đành phân mình ở chung 1 ký túc xá với 162 nhân viên nam còn lại trong 1 năm. Những chuyện này sẽ kể sau nếu có thời gian rảnh… Quay lại vấn đề chính, tại sao mình lại nói “công việc Sales B2B ở các công ty thuần Nhật không hẳn là một Sales đúng nghĩa”. Theo ý kiến cá nhân mình, vấn đề chủ yếu là do môi trường và tư duy của các công ty này đã quá cũ, không phù hợp và không bắt nhịp được với thế giới, thậm chí còn không bằng Việt Nam. Có thể nhìn thấy rất rõ qua một số ví dụ dưới đây: 1. Định nghĩa “người bán hàng” Bộ phận bán hàng (営業) tại các công ty cũ của Nhật về cơ bản kết cấu khá giống nhau. Họ có 1 số khách hàng ruột (account) và một nhóm các account manager cùng chăm sóc những khách hàng này. Mục tiêu chính của những account manager này là đảm bảo khách tiếp tục mua hàng hoặc tiếp tục kí hợp đồng, và tìm cách lấy thêm đơn hàng mới từ account này. Việc này không có gì phải bàn cãi. Điều đáng chú ý ở đây là gần như 99% các quyết định chiến lược liên quan đến bán hàng được đưa ra bởi các sếp (người Nhật), nhân viên không có quyền tự quyết. Nếu có kết quả tốt thì hầu hết là do sếp bạn hoặc là công sức của cả 1 tập thể, bạn chẳng có vai trò mấu chốt gì ở đây. Trong khi với các Gaishikei (công ty nước ngoài) hoặc các Startup (công ty khởi nghiệp), do yêu cầu mở rộng thị trường cao, mỗi Sales được giao cho quản lý cả 1 tập khách hàng, chịu hoàn toàn trách nhiệm chăm sóc họ, đồng thời cũng phải đảm bảo mang được khách hàng mới về. Đây mới là định nghĩa đúng của một “Sales”. 2. Sự cạnh tranh Không có một nghề nào đòi hỏi sự cầu toàn, tính nhẫn nại và sự cạnh tranh cao độ như nghề bán hàng. Hiện công ty mình có làm cả mảng nhân sự nên mình có cơ hội được phỏng vấn khá nhiều bạn trẻ có kinh nghiệm làm Sales ở Nhật. Một đặc điểm mình nhận ra khi nói chuyện với các bạn đến từ các công ty lớn như Toshiba, Fujitsu, v.v… là các bạn hầu như thiếu tính cạnh tranh. Cạnh tranh với công ty khác, cạnh tranh với đồng nghiệp hoặc thậm chí với chính bản thân mình.  Một trong các lý do lớn nhất là do các bạn không được quyền đưa ra các quyết định bán hàng chiến lược. Lý do thứ hai là việc trả lương và thưởng của các công ty Nhật. Với tư tưởng là duy trì công bằng, thì lại rất bất công với đội Sales. Dù bạn cố gắng đến đâu mà mức thưởng vẫn chia theo số tháng thì chả có lý do gì cần cạnh tranh, đúng không? Trong các công ty mới hoặc các nước trên thế giới, không có giới hạn về thưởng cho người bán hàng. Phấn đấu đạt quota (hạn mức) là chuyện tất nhiên. Và hơn thế nữa, sau khi đã vượt quota, hệ số thưởng cho mỗi hợp đồng mới mang về là rất lớn. Đồng nghiệp cũ của mình ở Singapore, mức thưởng trong năm 2017 của anh lên đến hơn 1 triệu USD, là một con số mà những người làm Sales cho các công ty lớn ở Nhật có mơ cũng không bao giờ đạt tới. Lại nói về tính cạnh tranh. Đối với các công ty Nhật, mọi người luôn đối xử thân thiện cùng tiến với nhau, nhiều người cùng chăm sóc một account nên sự phân định ranh giới về territory (lãnh thổ) không mạnh mẽ như các nơi khác. Mình đã từng chứng kiến một em người Mông Cổ và một em người Indonesia dằn mặt và gần như đánh nhau chỉ vì prospect (khách hàng tiềm năng) của em Mông Cổ tặng hoa chúc mừng sinh nhật cho em Indo. Không phải mình cổ vũ bạo lực, nhưng lý do mình đưa ra ví dụ này là để nói sự cạnh tranh trong Sales là tối cần thiết. Một Sales giỏi nên luôn mang trong mình một chút tính “hiếu chiến” như vậy thì bạn mới có thể bước vào nhóm 20% những người bán hàng top đầu. 3. Bạn bán được những sản phẩm nào? Một trong những việc khiến Sales ở các công ty kiểu cũ khó cạnh tranh khi chuyển việc là vì chế độ giáo dục kỹ năng khá sai lầm. Những công ty này thay vì tập trung đào tạo kỹ năng bán hàng cho nhân viên, thì lại tập trung vào dạy về sản phẩm và những thứ manner khác. Sếp cũ ở Hitachi của mình nói để là một sales giỏi cần biết mình bán cái gì. Ổng đẩy mình về Toyama đúng 1 năm đi vặn ốc vít với hàn cầu chì ở nhà máy. Bởi thế nên sau 3 năm mình chỉ biết cách bán mấy cái máy của Hitachi mà thôi. Sếp ở Singapore của mình cho mình 2 tháng qua Sydney để học một khóa huấn luyện kỹ năng bán hàng. Trong 2 tháng đó mình học về sản phẩm hết 3 ngày, còn lại tập trung vào các kỹ năng mềm như cách lọc tìm khách hàng tiềm năng, cách đặt câu hỏi và dẫn dắt quá trình đến khi chốt được đơn hàng, v.v… Kể cả sau khi đã kết thúc training, mỗi tuần một lần bọn mình có 1-on-1 meeting (họp riêng) với sếp để rà soát một lượt các vướng mắc khó khăn, và 1 lần cả team tập hợp để role-play (đóng vai) giả lập các tình huống xảy ra trong nghiệp vụ bán hàng. Các đồng nghiệp cũ của mình sau khi chuyển việc có thể làm ở bất cứ công ty nào, không giới hạn loại sản phẩm hay dịch vụ, vì cốt lõi của phương thức bán hàng bọn mình đã nắm được và không ngừng rèn giũa thêm. Viết hơi dài rồi, nếu ai thương mà đọc được đến đây thì mình vui lắm ạ. Lần sau có thời gian sẽ viết một bài chi tiết hơn về phương thức sales mà công ty cũ của mình đã mất 25 năm thuê chuyên gia về xây dựng và đúc kết qua hơn 6000 nhân viên trên toàn thế giới. Hy vọng có ích với mọi người!

  • [E-learning] Trọn bộ Entry sheet từ 12 công ty lớn thuộc 6 ngành hot

    Sau khi hoàn thiện việc phân tích bản thân và tìm hiểu doanh nghiệp, bạn lại trăn trở “Làm thế nào để có một Entry sheet độc đáo, ghi điểm với nhà tuyển dụng?”. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn trả lời nỗi niềm này. 1. Khái lược về Entry sheet Trong quá trình Shukatsu, Entry sheet ( エントリシート ) là một dạng hồ sơ cá nhân cung cấp thông tin của sinh viên tới các doanh nghiệp. Nó được coi là tài liệu tham khảo giúp nhà tuyển dụng đặt câu hỏi trong buổi phỏng vấn, cũng là “vũ khí” giúp ứng viên gây ấn tượng với công ty ngay từ vòng chọn lọc hồ sơ. Tùy theo từng công ty, các câu hỏi trong Entry sheet cũng khác nhau. Về cơ bản, nội dung chính xoay quanh 4 chủ điểm được nhà tuyển dụng quan tâm nhất như:▪️ Nỗ lực thời sinh viên ( 学生時代に頑張ったこと )▪️ Quảng cáo bản thân ( 自己PR )▪️ Nguyện vọng xin việc ( 志望動機 )▪️ Công việc bạn muốn thử sức sau khi vào công ty ( 入社後にやりたいこと ) Ứng viên có thể nhận Entry sheet từ doanh nghiệp thông qua 2 cách phổ biến: tải từ website công ty ứng tuyển hoặc nhận trực tiếp tại buổi giới thiệu do công ty tổ chức ( 会社説明会/セミナー ). Entry sheet được nộp thông qua website, đường bưu điện hoặc sau những buổi giới thiệu. Entry sheet là tài liệu quan trọng với sinh viên trong quá trình xin việc. Nó ảnh hưởng lớn đến ấn tượng đầu tiên của nhà tuyển dụng về mặt tính cách, giá trị quan, cách suy nghĩ, được bộc lộ qua các câu trả lời của ứng viên. Dựa vào những khía cạnh đó, nhà tuyển dụng có thêm cơ sở để quyết định mời ứng viên vào vòng phỏng vấn tiếp theo. Vậy phải viết Entry sheet như thế nào để “cầm chắc tấm vé” vào vòng phỏng vấn với nhà tuyển dụng? 2. Tổng hợp lời giải tham khảo cho các câu hỏi điển hình trong Entry sheet Chủ đề 4 cung cấp thông tin về các câu hỏi thường gặp trong Entry sheet của một số công ty trong các ngành lớn cùng câu trả lời gợi ý. Sau khi nghiên cứu tài liệu, bạn sẽ tích lũy thêm những cách viết Entry sheet gây ấn tượng mạnh với nhà tuyển dụng. 3. Nâng tầm phân tích câu trả lời trong Entry sheet theo phương pháp SOAR Bên cạnh các câu hỏi mẫu, tài liệu cũng cung cấp phương pháp phân tích câu trả lời trong Entry sheet. SOAR là một phương pháp lập luận chuyên dùng để sắp xếp câu trả lời một cách ngắn gọn và súc tích. SOAR gồm 4 phần: Situation (Tình huống), Obstacle (Trở ngại), Action (Hành động), Result (Kết quả). Phương pháp này giúp bạn tự tin xây dựng câu trả lời mang màu sắc cá nhân, thu hút sự chú ý của nhà tuyển dụng. 4. Chuỗi sản phẩm E-Learning – Chìa khóa tìm việc thành công tại Nhật Bản Được ví như cuốn cẩm nang dành cho người ít kinh nghiệm tìm việc tại Nhật Bản, bộ sản phẩm E-Learning gồm các video và tư liệu nhằm giới thiệu và giải thích những nội dung cần thiết nhất, đồng thời cung cấp công cụ hữu ích được tổng hợp từ kinh nghiệm thực tế của cộng đồng người Việt Nam hiện đang làm việc tại Nhật Bản. Xem ngay tài liệu tại:

  • [E-learning] Tìm hiểu doanh nghiệp trong quá trình tìm việc ở Nhật Bản

    ▪️ Làm sao để chọn ngành nghề phù hợp với bản thân? ▪️ Làm sao để biết đâu là một doanh nghiệp lý tưởng cho sự nghiệp trong tương lai? Đối với những bạn du học sinh Việt Nam đang sinh sống và học tập ở Nhật Bản, việc tìm được một công việc phù hợp, một công ty “vừa vặn” với nhu cầu của bản thân là một bài toán vô cùng khó khăn. Nếu bạn đang băn khoăn hay lo lắng với những câu hỏi trên, bài viết này chính xác là tất cả những gì bạn đang cần tìm kiếm. Trước khi bắt đầu hành trình Shukatsu ở Nhật, có 2 điều mà bạn không thể nào được bỏ qua đó chính là: Phân tích bản thân (自己分析) và Tìm hiểu doanh nghiệp (企業研究).  1. Vì sao phải cần tìm hiểu doanh nghiệp? Với giai đoạn “Phân tích bản thân”, bạn nhận ra ưu – nhược điểm cũng như nguyện vọng nghề nghiệp của chính mình. Tại giai đoạn “Tìm hiểu doanh nghiệp”, bạn sẽ trả lời các câu hỏi như: “Đâu là công việc phù hợp với tính cách và ưu nhược điểm của bản thân?” hay “Đâu là nơi giúp bạn phát huy tối đa thế mạnh của chính mình?”. Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không thực sự bỏ nhiều công sức để tìm hiểu về doanh nghiệp?  Hãy thử tưởng tượng: với một nhân viên với tính cách hướng nội, niềm vui trong công việc của cô ấy chính là được miệt mài làm việc với những con số trong văn phòng. Sẽ ra sao nếu một ngày, cô ấy bị thuyên chuyển sang bộ phận Sales, suốt ngày phải gặp gỡ khách hàng và cố gắng “chốt đơn” nhiều nhất có thể? Không ít người cảm thấy chán nản và muốn từ bỏ ngay dù chỉ mới vào công ty được vài tháng. Và hầu hết những lý do được đưa ra là: “Công việc này không phù hợp với tôi”, hay nổi trội hơn là “Tôi không thể thích nghi được với môi trường làm việc của công ty này.” Nguyên nhân cho những biến cố bất ngờ này là gì? Câu trả lời nằm ở việc: Có hay không bạn đã thực sự tìm hiểu doanh nghiệp một cách kĩ càng? 2. Biết “Tìm hiểu doanh nghiệp” quan trọng, nhưng vấn đề là… bằng cách nào? Việc tìm hiểu doanh nghiệp thường tốn rất nhiều thời gian và công sức nếu bạn không biết cách thực hiện nó một cách hiệu quả. Đặc biệt, việc tìm hiểu về các doanh nghiệp Nhật lại còn khó khăn gấp bội. Hiểu được tâm lý đó, Ban tổ chức đã dành rất nhiều tâm huyết để đem đến những thông tin cần thiết nhất và những phương pháp tìm hiểu doanh nghiệp một cách chi tiết. Tất cả được gói gọn trong một video hướng dẫn. Chỉ cần bỏ ra một chút thời gian trong ngày, ngồi ngay ngắn vào bàn học, mở video lên và làm theo, bạn sẽ trả lời được câu hỏi: “Đâu là doanh nghiệp phù hợp với mình?” 3. Video “toàn năng” này có gì đáng thu hút? ▪️ Khái quát những thông tin cần thiết để tìm hiểu doanh nghiệp.▪️ Cung cấp framework và bài tập chi tiết để bạn bắt tay ngay vào thực hành phân tích những công ty mình đã chọn.▪️ Tích hợp nhiều ví dụ thực tế, dễ hiểu vào nội dung bài học, giúp bạn có được những hình dung rõ ràng và khách quan. 4. Bộ sản phẩm E-Learning – Chìa khoá tìm việc thành công tại Nhật Bản Được ví như cuốn cẩm nang dành cho người ít kinh nghiệm tìm việc tại Nhật Bản, bộ sản phẩm E-Learning gồm các video và tư liệu nhằm giới thiệu và giải thích những nội dung cần thiết nhất, đồng thời cung cấp công cụ hữu ích được tổng hợp từ kinh nghiệm thực tế của cộng đồng người Việt Nam hiện đang làm việc tại Nhật Bản.

bottom of page