Search Results
Tìm thấy 52 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống
- Một Nhật Bản lạnh lùng (Phần 4)
Lứa chúng tôi được đánh giá là “ưu tú”, chính vì thế mà Chủ tịch quyết định, ngoài công việc chính mỗi đứa đang phụ trách, chúng tôi sẽ được thử nghiệm khả năng “phát triển sản phẩm”. Để chúng tôi bớt bỡ ngỡ với nhiệm vụ mới, ông đã sắp xếp thời gian để nói chuyện, chia sẻ với chúng tôi chừng hai tiếng, từ 1 cho tới 3h chiều. Và tôi đã phạm một sai lầm không thể tha thứ… Tôi NGỦ GẬT trong buổi trò chuyện ấy, ngay trước mắt ông và anh Natsuki – Phó Giám đốc, đồng thời cũng là con trai ông. Sau “tội ác” đó, khi quay trở lại chỗ Sếp trực tiếp Kubo Sanae để sẵn sàng nghe trách cứ, nhìn bộ dạng của tôi, chị có lẽ cũng thương quá không nỡ mắng nữa, chỉ nở một nụ cười hiền mà bảo “Chị phục em thật đấy An chan ạ! Tại sao em lại có thể ngủ được trước mặt Chủ tịch chứ nhỉ? Chị thì chỉ cần có mặt ở nơi nào có Chủ tịch thôi, là mọi giác quan tự động căng lên vì sợ rồi, ngủ thế nào nổi! Thôi, em qua chỗ Sếp trùm Kumiko đi!” Kumiko đón tôi với vẻ mặt căng thẳng và buồn rầu. Chắc hẳn cô cũng vừa ăn sạc một trận kinh hoàng khủng khiếp do lỗi tày đình mà tôi đã gây ra. Cô bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế gần đó, thở dài rồi bảo đứa em cưng của mình “Lần này thì chị chịu, không thể nói đỡ cho em được nữa. Chúng ta hãy cùng chờ đợi hình phạt mà thôi…” *** Tại sao Kumiko lại dùng từ “lần này”??? Là bởi vì cách đó chừng một tuần chứ mấy, tôi đã bị chính anh Natsuki phát hiện đang NGỦ GẬT trong buổi giáo huấn, chỉ bảo của Chủ tịch dành cho toàn bộ nhân viên, sau event bán hàng hoành tráng nhất trong năm Grand Festival, kéo dài 2 ngày và được tổ chức tại khách sạn sang xịn nhất Osaka, tập hợp toàn bộ nhân viên kinh doanh từ các cửa hàng trên toàn quốc. Dịp này cũng là dịp mà các hoạt động của công ty diễn ra dày đặc. Có những ngày chúng tôi kết thúc sanjikai (bữa nhậu thứ ba trong buổi tối) lúc 2h sáng, rồi bọn nữ giới chúng tôi lại có mặt ở công ty lúc 4h để chuẩn bị bữa sáng, rồi 5h bắt đầu vào “Giờ học sớm hàng tháng” đến tận 8h. Đương nhiên, chúng tôi bắt đầu công việc thường nhật từ 8h30, như thường lệ. Những mệt mỏi, stress do phải nỗ lực hơn trước rất nhiều đã phát sinh và tích tụ từ tháng 4, giờ được thể bùng phát vào trước dịp nghỉ lễ Obon ấy. Tôi NGỦ GẬT, lại hẳn là trong buổi giáo huấn, chỉ bảo của Chủ tịch. Anh Natsuki lại là người nhìn thấy. Mà cũng còn may vì người đó không phải là Chủ tịch. Ngay sau ấy, Kumiko gọi tôi ra gặp riêng trong phòng họp. Cô nghiêm khắc hỏi “An chan, tại sao em lại ngủ gật như vậy?” Tôi thành thực xin lỗi vì chắc chắn đã làm cô bị mắng te tua, rồi nói thật là do tôi mệt quá, cơ thể như kiểu tới ngưỡng, nó tự kéo sụp mí mắt xuống. Cô bảo “Ai cũng mệt cả, An chan ạ! Nhưng ai cũng đều phải tự tìm ra giải pháp để không làm cái chuyện bất lịch sự ấy! Công ty mình kỵ nhất chuyện ngủ gật, tại sao em có thể quên được điều đó chứ???” Quả thật, có một luật lệ bất thành văn và vô cùng nghiêm khắc trong công ty tôi về chuyện này. Chúng tôi không được phép ngủ trên xe trong thời gian di chuyển (bất kể là dài đến bao nhiêu) nếu như xe đó do nhân viên công ty lái, vì đó là không tôn trọng đồng nghiệp của mình. Mà làm gì có lúc nào chúng tôi ngồi xe do người ngoài lái, vì trong công ty đã có đội lái xe, vận chuyển hàng hóa riêng rồi còn đâu. Vì thế, mỗi lần từ Trụ sở chính đi công tác ở những địa điểm bán hàng dịp event (Có khi là tầm 10 tiếng, từ Osaka lên Saitama, kể cả khi đã mệt rã chân vì hai ngày đứng liên tiếp từ 8h sáng đến 10h tối, chúng tôi vẫn không được phép ngủ. Chẳng may có gật gà chừng 2 nhịp thì y như rằng đến nhịp thứ 3, người bên cạnh đã chọc chọc cho tỉnh rồi. Ở Việt Nam tôi vốn say xe, rất hay buồn ngủ khi di chuyển. Thế mà trong tình hình ấy, bản thân tôi đã phải luyện đủ mọi cách (ngậm ô mai, ngửi vỏ quýt, ngồi lên ghế cạnh tài xế nói cười huyên thuyên, tự kỷ ám thị “không được ngủ, không được ngủ”, tự cấu véo chân tay mình, v.v) để mà thích nghi. Ngay cả Chủ tịch cũng tuân thủ nghiêm ngặt quy định này. Tôi chưa hề thấy ông ngủ gật lần nào, trong suốt những dịp ngồi chung xe với ông khi còn trong nhóm “Tháp tùng công tác”. Kết quả thật đáng kinh ngạc, tôi không còn say xe nữa. Điều này thực sự giúp tôi rất nhiều cho công việc đi lại liên miên của một phiên dịch tự do sau này. “Tại sao em không có biện pháp phòng vệ nào, để đến nỗi NGỦ GẬT như thế chứ?” Kumiko nhướng đôi mắt rất nâu lên nhìn tôi, đầy vẻ nghiêm khắc. Tôi không biết nói sao nữa, đành kéo cao tay áo lên cho cô xem. Hai cườm tay tôi đỏ ửng, chi chít vết móng tay tôi tự cấu mình suốt 3 tiếng đồng hồ nghe diễn thuyết đó. Những vết móng tay sâu, nhiều vết bật cả máu ấy, hai hôm sau mới lặn hết hoàn toàn. Tôi không giở ra cho cô xem, nhưng hai đùi tôi khi ấy cũng đang hằn đầy những vết cấu véo. Tôi đã để rơi nước mắt “Em đã uống cà phê rất đặc rồi, và em cũng đã làm hết cách có thể rồi…”. Và Kumiko cũng rơm rớm nơi hàng mi… Có lẽ vì thế mà tôi không bị xử lý sau vụ việc tày đình đó. Khi tôi tới gặp để nói lời xin lỗi, anh Natsuki chỉ rất nghiêm khắc nhìn tôi suốt 2 phút rồi thở dài “TUYỆT ĐỐI không để việc này tái diễn một lần nào nữa nhé!” Thế mà… *** Sau kỳ nghỉ Obon ấy, tôi bị giáng từ “Công việc tổng hợp” xuống “Công việc thông thường”. “Công việc thông thường” đồng nghĩa với việc lương sẽ giảm gần một nửa so với “Công việc tổng hợp”. Thậm chí còn mất cả khoản “phụ cấp MC tầng thượng” vì không đủ tư cách ở trong đội đó nữa. Bù lại, “Công việc thông thường” nghĩa là chỉ cần có mặt ở công ty lúc 8h và ra về lúc 17h, chứ không làm việc tới tận lúc có dấu hiệu cho thấy được về, có thể vào đủ mọi khung giờ, rải rác từ 19h30 đến 1h sáng như “Công việc tổng hợp”. Dấu hiệu rõ rệt nhất là khi bác Kato – Phó giám đốc điều hành đứng dậy và bảo “お先に失礼致します。Tôi xin phép về trước”, rồi tất cả những người khác đồng thanh “お疲れ様でした。Cảm ơn anh đã nỗ lực đến phát mệt lên rồi!”(Cái này tôi dịch láo nháo chút cho vui). Dấu hiệu rõ thứ hai là khi Sếp trùm giới nữ (kiêm Trưởng phòng Quản lý bán hàng nơi tôi thuộc biên chế) lên tiếng “5 phút nữa về nhé các cô gái!” Tuy nhiên, đấy là trên lý thuyết. Còn thực tế là tuy bị giáng xuống “Công việc thông thường”, nhưng 7 cửa hàng tôi phụ trách thì không nhảy xuống bất cứ một con số nào. Ban đầu tôi nghĩ, có lẽ các sempai của tôi cũng đã ở mức không thể nhận thêm một cửa hàng nào nữa vì quá tải, việc nhập liệu nhiều khi phải đẩy qua cho nhân viên thời vụ làm giúp. Về cơ bản, tôi cũng có thể đẩy bớt việc nhập liệu qua cho nhân viên thời vụ, nhưng quả thực họ cũng tối mắt tối mũi rồi, nên trước nay tôi vẫn cố gắng tự làm mọi thứ. Thế là tôi bắt đầu nhận lương “Thông thường” và vẫn làm việc như một “Tổng hợp”. Chỉ thỉnh thoảng lắm tôi mới được rời công ty vào lúc 17h hay sau 17h nhưng sớm hơn đội “Tổng hợp”. Chả còn cách nào cả, vì nó vẫn là công-việc-của-tôi. Vì thế mà cả tháng đầu, tôi đã mang theo vẻ mặt rất buồn chán. Nhưng rồi một ngày kia, tôi nhớ lại và nhận ra rằng, tất cả trường hợp bị giáng từ “Tổng hợp” xuống “Thông thường” do mắc một lỗi không thể tha thứ nào đó đều tự xin nghỉ việc sau một thời gian ngắn. Người trước tôi là Mitsubashi – ngôi sao của Văn phòng Tokyo, từng một thời được “siêu sủng ái”. Lý do thất sủng của cô là: Chủ tịch dùng tay tìm thấy một vết bụi ở một góc khuất nào đó trong căn hộ nguyên tầng sang trọng của ông tại Yotsuya. Tôi nhớ lại và nhận ra rằng “Mình đang bị ép để tự xin nghỉ việc!” Nhưng mà tôi không thể xin nghỉ việc được. Ước mơ của tôi còn đó! Cái ước mơ xây lại căn nhà cấp 4 cũ kỹ, chật chội để bố mẹ tôi được sống trong môi trường tốt hơn ấy. Nên là tôi đã quyết định mình sẽ tập trung mọi sức lực để chịu đựng cho tới khi ước mơ đó thành sự thực. Đến lúc ấy, tôi sẽ rời bỏ chỗ này. Và thế là sau đó, do đã xác định được mục tiêu và điểm mốc kết thúc, dù là nhận đồng lương phải “thắt chặt chi tiêu” và làm việc đúng theo khung giờ với những người thuộc nhóm “Tổng hợp”, tôi vẫn luôn làm việc với tinh thần vui vẻ y như trước đây. Ngoài công việc chuyên môn là “quản lý, hỗ trợ cửa hàng” tôi cũng vẫn thuộc nhóm tích cực nghe và trả lời điện thoại nhất tại Trụ sở chính, kể cả điện thoại phàn nàn của Khách hàng, tất nhiên là với ngôn từ lịch sử và nụ cười trên môi. Có lần tình cờ đi ngang lúc tôi đang tiếp nhận phàn nàn từ Khách hàng, anh Natsuki sau đó còn gọi tôi xuống bàn làm việc của anh. Khi tôi lật đật chạy xuống, vừa chạy vừa soát lại xem mình đã gây ra lỗi gì tiếp theo, thì anh cười và khen ngợi “Em xử lý, chuyện trò với Khách còn khéo hơn cả một số người Nhật đấy! Cố gắng phát huy nhé!” Tôi vẫn cố gắng, hàng ngày… Và, trong thâm tâm, quả thực tôi cũng mong rằng những nỗ lực ấy của tôi sẽ được ghi nhận. Trước hết là chị Kubo Sanae, rồi Sếp trùm Kumiko, rồi bác Kato, anh Natsuki, rồi Chủ tịch. Rồi tôi sẽ được bỏ qua lỗi lầm cũ, rồi tôi sẽ được khôi phục lại “Công việc tổng hợp”… Nhưng không hề có lấy một dấu hiệu như vậy, trong suốt cả 6 tháng tiếp theo. Và tôi thì vẫn chưa đủ tiền để thực hiện ước mơ, nên hàng ngày vẫn vui vẻ thực hiện công việc, đeo bám mục tiêu của mình. Từ trong tâm, tôi thực sự không cảm thấy bất cứ sự bất mãn nào, kể cả đối với sự ngại ngần trong tiếp xúc của một số sempai đàn chị hay kohai đàn em. Tuy nhiên, tôi vẫn hiểu, đó là do tôi đã có mục tiêu rõ ràng. Còn nếu không, chắc chắn là tôi đã không thể còn tồn tại trong môi trường đó, sau một khoảng thời gian dài như vậy nữa. Rõ ràng, tôi sẽ đuối dần, cả thể lực và tinh thần. Không ai có thể duy trì mãi những việc mà chẳng một ai công nhận, kể cả bản thân mình, phải không? “Dù qua bao nhiêu đắng cay vẫn cười Vì mùa hạ còn nhiều tươi vui Và lòng còn nhiều điều muốn nói” Trích ca khúc “Vào hạ” của Lê Hựu Hà, một bài hát mà tôi rất thích qua phần trình bày của Tam ca Áo trắng
- Rèn luyện năng lực ngôn ngữ (Phần 2)
Trước khi bắt đầu, bạn hãy nghĩ về câu hỏi sau: Gần đây bạn có gặp phải tình huống khó khăn nào khi diễn đạt bằng lời không? Mục đích của câu hỏi này là khi đọc đến cuối bài bạn có thể phân tích xem lý do mình gặp khó khăn là gì. Hãy nghĩ về câu hỏi này trong suốt quá trình đọc bài nhé. Còn giờ thì quay trở lại bài nào. Theo bạn, bản chất của ngôn ngữ là gì? Chúng ta chắc ai cũng biết ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và truyền đạt suy nghĩ, kiến thức, nội dung… Mình muốn giới thiệu một khái niệm: Ngôn ngữ hóa (mình xin tạm giữ nguyên theo từ gốc tiếng Nhật vì không biết phải dùng từ tiếng Việt nào để diễn đạt đúng ý nghĩa nhất). Ngôn ngữ hóa là quá trình chuyển hóa những suy nghĩ trong đầu thành những lời nói, chữ viết mà người khác có thể dễ dàng hiểu được, sau đó truyền tải đến đối phương. Quá trình ngôn ngữ hóa gồm 5 bước như sau: Quan sát sự vật, sự việc Sắp xếp suy nghĩ Tóm tắt có mục đích Hiểu đối phương Truyền đạt 1 . Quan sát sự vật, sự việc Thông thường khi thưởng thức một món ăn ngon, để khen là ngon có phải bạn chỉ nói rằng “Món này ngon quá” hoặc “Giòn/ngọt nhỉ”? Sau đây là đoạn miêu tả của một người nước ngoài nói về món tóp mỡ (tép mỡ) của Việt Nam mà mình rất ấn tượng. Tóp mỡ là những viên gồm da, mỡ và thịt heo. Bộ ba “thần thánh” này được chiên đến khi có màu nâu vàng, sau đó được phủ một lớp nước mắm kho kẹo, thêm chút ớt và tỏi phi. Cho một cục tóp mỡ nóng hổi vào miệng, cắn một cái, âm thanh giòn rụm và lớp mỡ tóe ra trên đầu lưỡi mang lại một thứ xúc cảm diệu kỳ” -Jordy Trachtenberg, người Mỹ sống tại Tp. HCM- Link Bạn thấy giữa cách tả của mình và của anh bạn này có gì khác nhau không? Có thể bạn nghĩ rằng việc chỉ nói được vài từ như ngon, giòn… là do thiếu vốn từ, nhưng thực chất suy nghĩ sâu hơn thì là do thiếu sự quan sát . Do không có thói quen quan sát và suy nghĩ mỗi ngày nên bạn miêu tả mọi món chỉ với một từ ngon; trong khi vị của một miếng bánh kem này với vị ngon của miếng bánh kem khác có khi cũng khác nhau rồi. Vì vậy, để rèn luyện được khả năng ngôn ngữ thì việc đầu tiên cần làm là phải luyện tập khả năng quan sát. 2. Sắp xếp suy nghĩ Đây là quá trình sắp xếp các suy nghĩ trong đầu sao cho thật dễ hiểu. Nếu suy nghĩ của bạn bị phân tán, lộn xộn thì quá trình này sẽ rất khó khăn. Phương pháp hiệu quả ở đây là rèn luyện tư duy logic . Tư duy logic là cách “đưa những thứ phức tạp trở thành thứ đơn giản”. 3. Tóm tắt có mục đích Để hiểu hơn về phần này, mình muốn mọi người bắt đầu với một bài luyện tập. Xin lỗi bạn đọc vì phải luyện tập hơi nhiều trong các bài viết của mình, nhưng các bạn cũng biết rồi đấy học thì phải có hành phải không nào ^^. Luyện tập: Hãy kể chuyện Thánh Gióng trong một câu. ----- Dừng lại 30 giây để suy nghĩ… ----- Giờ hãy thử kể lại câu chuyện lần nữa theo 3 câu hỏi sau Tóm tắt lại nội dung chuyện Thánh Gióng trong một câu. Giới thiệu về chuyện Thánh Gióng trong một câu sao cho người đọc thấy hứng thú và muốn đọc thử. Nói cảm nhận của bạn về chuyện Thánh Gióng trong 1 câu. Bạn có nhận thấy tùy vào từng MỤC ĐÍCH mà cách nói của bạn sẽ thay đổi không? Như vậy, để tóm lược được nội dung muốn truyền tải bạn phải hiểu được mục đích của của bạn là gì. 4. Hiểu đối phương Phần này khá dễ hiểu vì thông thường ta sẽ lựa chọn các cách diễn đạt khác nhau tùy vào nền tảng của từng đối phương. Hiểu được đối phương giúp chúng ta tìm được cách nói phù hợp, dễ hiểu với họ, giúp họ dễ hình dung hơn. Ví dụ như nếu bạn muốn mô tả quả táo, nếu nói với một người lớn tuổi rằng đó là biểu tượng logo của iPhone thì mình không chắc họ sẽ đoán ra. Để hiểu nền tảng của đối phương thì cần rèn khả năng quan sát, biết lắng nghe và đặt câu hỏi. Bởi lẽ chúng ta sẽ không thể hiểu được người khác nếu chỉ mải mê nói về bản thân mình. 5. Truyền đạt Bước cuối cùng là truyền đạt đến đối phương. Bước này yêu cầu bạn phải từ bỏ sự cầu toàn cũng như mong muốn được nói ra ngay lập tức tất cả những thứ trong đầu. Quay lại câu hỏi mình đã đưa ra ở đầu bài. Gần đây bạn có gặp phải tình huống khó khăn nào khi diễn đạt bằng lời không? Bạn thử nghĩ xem khó khăn của mình nằm ở bước nào trong 5 bước trên nhé. Khó ở đâu gỡ ngay ở đó! Bài luyện tập bonus: Đoán vật được mô tả Nhìn vào ảnh này bạn thấy cái gì? Là một thứ có thể ăn được, hình tròn khoảng bằng nắm tay, bên trong có hạt màu đen. Có thể ăn luôn hoặc ép lấy nước uống. Là quả táo đúng không? Bạn hãy nhìn vào ảnh trên và miêu tả cho người khác những gì bạn thấy trong ảnh, để họ đoán xem bạn đang miêu tả thứ gì. Nguyên tắc là khi nói không được nhắc đến các từ như Táo, Apple, りんご. Nếu bạn tập mô tả ảnh với những người khác, bạn sẽ thấy có rất nhiều cách khác nhau để diễn đạt về cùng một sự vật, sự việc. Tổng kết Mình xin tổng kết lại bài dưới dạng Q&A nhé 😉 Q: Không biết phải nói hay viết gì đầu tiên? A: Hãy rèn tính QUYẾT ĐOÁN , tập đưa ra quyết định và tìm lý do để trả lời. Q: Không hiện chữ trong đầu? A: Hãy 1) tăng kiến thức nền (đọc sách…), 2) tập quan sát, 3) tạo thói quen tự đặt câu hỏi – tự trả lời, 4) tìm hiểu khái niệm Tư duy logic (Logical thinking), 5) Đưa các từ ngữ bạn vẫn quen dùng hàng ngày như ngon, giỏi, đẹp… vào danh sách cấm, luôn ý thức tìm ra cách nói khác để đa dạng hơn vốn từ của mình. Q: Không biết cách tóm lược? A: Hãy hiểu mục đích của việc truyền đạt và luyện tóm lược trong một câu. Q: Khó khăn trong việc truyền đạt đến đối phương? A: Hãy sống với phương châm HOÀN THÀNH HƠN HOÀN HẢO . Từ bỏ CẦU TOÀN . Nguồn tham khảo Các bạn có thể tham khảo thêm về chủ đề Ngôn ngữ hóa ở đây: https://mba.globis.ac.jp/careernote/1258.html Tìm hiểu thêm về khả năng quan sát: sách Óc quan sát của tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần.
- Một Nhật Bản lạnh lùng (Phần 1)
Xin chào các bạn! Mình tình cờ được một thành viên giới thiệu Group này, và bạn ấy nghĩ rằng series “Một Nhật Bản lạnh lùng” mà mình viết gần đây, trong đó có những chuyện hồi mình còn đi làm bên Nhật, có thể sẽ được Group mình đón nhận. Vì vậy mà mình xin phép được đưa dần. Một vài câu chuyện đầu là hồi mình còn đi học, có thể không liên quan lắm, nhưng do cùng series nên mình sẽ đưa lên luôn nhé! Bài dài, mình cảm ơn trước các bạn sẽ theo dõi đến cùng ạ! Một Nhật Bản lạnh lùng – Vài câu chuyện của tôi (Câu chuyện thứ nhất) Tôi bất chợt nhận ra sự lạnh lùng của xã hội Nhật Bản (đặc biệt là Tokyo) vào một buổi chiều cuối tuần, cuối tháng 3 năm 1999. Buổi sáng ấy tôi quay trở lại Nhật Bản sau chuyến về thăm nhà khoảng 2 tuần. Đây là lần về nước đầu tiên của tôi kể từ tháng 4/1997, và là chuyến trở về cần thiết, vì tới đây, em gái tôi sẽ đi đúng con đường của tôi là sang Nhật Bản du học. Cơ hội để cả gia đình 5 người đoàn tụ có lẽ phải lâu lâu nữa mới ghé thăm. Chúng tôi là cặp chị em (anh em) đầu tiên đến từ Việt Nam và cùng nhận học bổng MEXT (Hồi ấy gọi là học bổng MONBUSHO) của Chính phủ Nhật Bản. Do vậy là hành lý của chuyến đi ấy, ngoài chiếc vali to của bản thân, tôi còn tha lôi thêm chiếc vali (thậm chí còn to hơn) của em gái, cộng một chiếc vali kéo (cỡ có thể mang lên máy bay), cùng một ba lô nặng tướng sau lưng. Hành lý đi sau của em gái tôi chắc hẳn cũng ngang ngửa vậy. Chúng tôi là con của một bà mẹ nghèo, lo đến cả cái giẻ lau để con mang theo kẻo tốn tiền mua, nên đôi khi phải cố gắng tha lôi như thế. Và chiếc vé rẻ săn được khiến cho hành trình của tôi phải thêm hai chặng, trở thành Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh – Hong Kong – Osaka – Tokyo (Thời ấy còn chưa có đường bay thẳng từ Việt Nam qua Nhật Bản). Đồng nghĩa với việc tôi sẽ lấy toàn bộ hành lý ra, di chuyển sang đường bay quốc tế (hay nội địa), rồi gửi lại hành lý ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hongkong và Osaka. Nhưng thực ra, những thao tác này tại sân bay thì có xe đẩy hành lý hỗ trợ nên mọi thứ đều ổn thỏa cả. Tôi chỉ trở nên lúng túng sau khi đã ra khỏi khu vực sân bay và vào ga tàu ở Haneda. Giá mà như bây giờ, tôi sẽ gửi lại toàn bộ đống hành lý cồng kềnh ấy cho dịch vụ vận chuyển tận nhà của mấy hãng lớn, rồi ung dung lên tàu mà về nhà. Nhưng hồi ấy, đó là chi phí mà tôi không bao giờ dám chi, nên đương nhiên tôi sẽ dùng sức “trẻ trâu” của mình để tiết kiệm khoản này. Từ sân bay Haneda về tới ký túc xá cần đổi tàu 3 lần, lần nào cũng phải tha lôi đống đồ đi sang tuyến khác khá xa, chứ không thể đổi ngay trên sân ga. Những nhà ga ở Tokyo cách đây 21 năm thì không có nhiều thang máy như bây giờ. Tuy vậy, khi đi trên đường bằng, tôi cũng không gặp phải vấn đề gì lắm, cứ gồng lên mà kéo 3 cái vali, và chầm chậm từng bước thì rồi cũng tới nơi. Nhưng ở những đoạn chỉ có cầu thang hay từ sân ga bước lên tàu thì bắt buộc tôi phải dừng lại, khệ nệ xách từng món hành lý, đặt xuống dưới chân thang (hay trong tàu), rồi lại leo lên (bước ra) khênh vác tiếp. Hãy tưởng tượng cảnh một con bé 38kg loay hoay với 3 cái vali từ rất lớn, đến lớn và nhỏ, cộng thêm một cái ba lô to hơn cả lưng nó ở phía sau. Với phụ nữ, nhan sắc là một lợi thế, mà con bé ấy đương nhiên không phải xinh đẹp gì. Nhưng tôi nghĩ, nếu là ở Việt Nam, thể nào cũng có người động lòng thương mà chạy ra giúp nó một tay. Tuy nhiên, ở cái đô thị đông đúc và bận rộn này, thì không một ai để ý đến nó cả. Tôi nghĩ, có thể cũng có người thấy cảnh tượng ấy, nhưng mà họ sợ phiền toái, thế nên họ chỉ đứng xa xa nhìn. Có lẽ họ cũng tự hỏi “Con bé kia sao mà tha lôi lắm đồ thế nhỉ?” Có lẽ, cũng có người thoáng nghĩ “Không biết nó có cần mình giúp không???” nhưng rồi tàu đến, và họ phải leo lên chuyến tàu của họ, họ đi! Vì họ đang sống trong một xã hội cực kỳ bận rộn… Còn tôi đã trở về ký túc xá sau 2 giờ đồng hồ, với đôi cánh tay tưởng như sắp rời ra vì mỏi. Mà hình như không chỉ tay, cả cơ thể 38kg của tôi đều đã phải gồng lên hết mức để hoàn thành “điệp vụ vận chuyển” trong khi không dùng đến bất cứ sự trợ giúp nào. Có lẽ tôi đã tiết kiệm được gần 1 vạn yên, mà chỉ mất gấp đôi thời gian so với thông thường. Như vậy là thành công rồi, phải không? Thế là vào một buổi chiều cuối tuần tháng 3 với hơi gió mùa xuân âm ấm ấy, bên cạnh những điểm ưu việt, tôi cũng đã cảm nhận được góc độ lạnh lùng của xã hội Nhật Bản hiện đại. Mà có thể đó cũng không gọi là “lạnh lùng”, đó là “rèn luyện để tự lập” chăng? Biết đâu, đó mới là thực tế của cuộc đời… Nhưng cuộc đời thì vẫn luôn khiến tôi mỉm cười, và tôi biết rằng mình yêu “hắn” ghê gớm khi từ sân ga tàu điện ngầm leo lên mặt đất, rẽ phải để đi dọc con sông nhỏ quen thuộc xuôi về ký túc xá, tôi chợt thấy vô vàn bao nụ anh đào mập mạp hồng phơn phớt như đã sẵn sàng bung nở, trên những cành nâu khẳng khiu…
- Một Nhật Bản lạnh lùng (Phần 2)
Câu chuyện 1 Tháng 3/2000, tôi tốt nghiệp trường Kế toán Murata và chính thức kết thúc chương trình “Sống trong nhung lụa MONBUSHO” (theo như lời anh Lương – sempai trên tôi 2 khóa). Tháng 4 cùng năm, nhờ qua được kỳ thi liên thông gồm xét hồ sơ, viết luận và phỏng vấn tầm tháng 10 trước đó, tôi trở thành sinh viên năm thứ 3 chuyên ngành Quản trị kinh doanh – Khoa Kinh tế – Đại học Surugadai. Surugadai là đại học tư thục non trẻ, thành lập năm 1987. Cũng giống như ở trường cũ Murata, tôi là sinh viên người Việt Nam đầu tiên tại đây. Cuộc sống vừa học vừa làm kiếm sống nuôi thân đương nhiên là khó khăn, vất vả hơn thời nhận học bổng được bao bọc trong nhung lụa rất nhiều, nhưng chính nó là bước đệm để tôi có thể vượt qua những thử thách khó khăn tiếp theo của cuộc sống. Cùng vào trường năm ấy với tôi có khoảng gần chục sinh viên nước ngoài khác. Chúng tôi học cùng nhau những tiết tiếng Nhật với cô giáo Akiyama nhỏ bé, đeo cặp kính gọng tròn hiền ơi là hiền. Trong số ấy, tôi hay chơi với chị Aung – người Myanmar. Hai chị em sau này cùng nhận học bổng Rotary Yoneyama ở T.P. Kawagoe – Tỉnh Saitama, trông lại nhang nhác giống nhau nữa nên nhiều người tưởng chúng tôi là chị em ruột. Ngoài ra, giờ ăn trưa, tôi hay ngồi với anh Yo – người gốc Triều Tiên nhưng sinh ra lớn lên ở Cáp Nhĩ Tân – Trung Quốc, anh nói tiếng Nhật nhoay nhoáy; một em trai người Malaysia gốc hoa, họ Pham (Chắc là Phạm); một chị người Hàn Quốc họ Kim tóc ngắn cá tính; một em gái Bắc Kinh họ Lee có nụ cười tươi tắn. Chúng tôi hay ngồi một góc cố định trong căng-tin, đứa nào đứa nấy giở cơm hộp mang theo ra ăn với nhau, rồi chém gió inh ỏi. Trong nhóm, tôi đặc biệt thán phục anh Yo và em Pham. Hai người này, ngoài việc đưa báo từ 3h sáng cho tới trước lúc đến trường, thì chiều tối tan học còn chạy bàn ở quán ăn hay đứng nắm sushi tới 11h đêm, ngày chỉ ngủ chừng 3 tiếng. Thế mà lúc nào họ cũng tươi vui, tích cực. Nhất là Yo, anh bắn tiếng Nhật toanh toách đủ mọi chủ đề suốt cả giờ nghỉ đến nỗi thỉnh thoảng chúng tôi phải bảo “Anh dừng nói mà ngủ đi một chút có hơn không”. Ngoài ra, ở nhóm Seminar chuyên ngành Kế toán do Thầy Kobayashi hướng dẫn, tôi thỉnh thoảng có nói chuyện với T (người Nhật), vì chúng tôi cùng nhảy cóc vào năm 3 đại học bằng kỳ thi liên thông từ senmon gakko (trung học chuyên nghiệp). Một hôm, khi đang ăn trưa thì có một anh nọ lại gần chúng tôi, và hỏi tôi có phải “Lưu san” không? Anh giới thiệu mình là Lee, học cùng chuyên ngành, trên tôi một khóa, và là sempai (đàn anh) trong Seminar của Thầy Kobayashi. Có lẽ thầy vừa giao cho anh nhiệm vụ để ý, giúp đỡ đứa kohai (đàn em) người nước ngoài nên giờ nghỉ trưa, anh lập tức xuống ngay căng-tin tìm tôi. Anh là kiểu người hiền lành và cực kỳ nghiêm túc. Đó là tất cả những người bạn mà tôi có trong hai năm làm sinh viên cuối cùng của cuộc đời mình. Sau học kỳ đầu tiên và đợt nghỉ hè, từ mùa thu, ngoài giờ ăn trưa, tôi rất hay tình cờ gặp một trong hai người đã kể tên ở trên những khi tôi ngồi một mình (trong nhà ăn, phòng đọc của thư viện, phòng máy tính) hay ở bãi chờ xe bus. Nếu coi đây là một đoạn trong tiểu thuyết thể loại suy lý, vậy bạn hãy thử đoán xem hai người đó là ai nhé??? Uhm, tôi có nên tạm dừng câu chuyện này, để bạn thử tài thám tử của bản thân không nhỉ??? Hay là bạn hãy thử comment tên hai nhân vật “tình nghi” xuống dưới kia, rồi hãy lên đây đọc tiếp nhé! Câu chuyện 2 Chào mừng bạn đã quay trở lại với câu chuyện theo chủ đề “lạnh lùng”. Hmm, đó, tôi vừa cung cấp cho các bạn một tình tiết để phỏng đoán rồi. Bạn có cần tới gợi ý tiếp theo không? Tôi nghĩ, có lẽ không cần đến thông tin tôi cung cấp, bạn cũng có thể đoán ra một người. Đúng đấy, đó là sempai Lee. Người còn lại thật ra còn dễ đoán hơn, nếu bạn bám sát chủ đề “lạnh lùng Nhật Bản”. Vâng, đó là T, cậu bạn cùng Seminar của thầy Kobayashi. Điểm chung của hai người này là lặng lẽ. Họ cứ lặng lẽ ở đâu đó gần tôi như vậy (có thể là cách một hai chiếc ghế, có thể là ở ngay phía trước hay sau trong phòng máy tính hoặc thư viện), thỉnh thoảng họ quay qua tôi hỏi han chút xíu, hay có khi chỉ là mỉm cười rất khẽ khàng. Nếu gặp đâu đó trong phòng ăn hay bãi chờ xe bus, chúng tôi có thể sẽ nói chuyện nhiều hơn chút ít. Chỉ vậy thôi. Thế rồi gần tới cuối năm, chẳng hiểu hai ông có phím nhau không mà ông trước ông sau (cách nhau chừng hai tuần) đều hỏi tôi rằng “An chan có bạn trai chưa?” Lee hỏi tôi trước, hình như là bên cửa sổ căng-tin, khi tôi đang ủ ấm đôi tay của mình với một lon ca-cao nóng thơm lừng, và trời thì kéo mưa giăng nho nhỏ trên những ngọn núi xung quanh. Nghe xong câu trả lời, anh im lặng, như vẫn vậy, như trong những giờ ăn trưa chung với nhóm sinh viên nước ngoài. Tuy nhiên sau đó, anh tiếp tục thỉnh thoảng xuất hiện ở đâu đó gần tôi, những khi tôi một mình, như trước. Cuối năm học ấy, Lee tốt nghiệp. Anh về lại Phúc Kiến, làm việc cho công ty của gia đình. Chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau nữa. *** T hỏi, khi chúng tôi cùng di chuyển từ giảng đường môn học gì đó lên phòng Seminar. Trong thang máy, cậu bất chợt cất lời “An chan có bạn trai chưa?” “Tớ có rồi!” Tôi trả lời. “Chắc bạn trai cậu là người Nhật phải không? Cậu nói tiếng Nhật tốt thế kia mà!” “Ồ không! Bạn trai tớ là người Việt!” Đến đây thì cậu ấy im lặng. Thang máy dừng ở tầng 4, T bước ra trước và nhấn nút giữ thang cho tôi. Khi tôi đã tiến gần tới cửa, cậu nhìn vào mắt tôi, nói khẽ “Tớ thích cậu đấy, An chan ạ!” Rồi cậu quay người đi trước, để tôi khựng lại một nhịp ở phía sau, vì không thể ngờ được rằng hóa ra mình vừa được tỏ tình. Sau đó, T không bao giờ còn tình cờ xuất hiện khi tôi ngồi đâu đó một mình. Chúng tôi chỉ chạm mặt nhau trong những giảng đường chung hoặc ở Seminar. Cậu cũng không còn tích cực hỏi han, chuyện trò với tôi nữa. Trước mùa hè năm thứ 4, tôi nhận được Naitei (Thư thông báo trúng tuyển). T chậm hơn, ở vào những đợt tuyển dụng cuối cùng, nhưng chúng tôi đều tốt nghiệp vào cuối tháng 2/2002 và bắt đầu đi làm từ tháng 4 năm ấy. Cũng giống như với Lee, tôi không bao giờ gặp lại T nữa. Câu chuyện 3 Bạn đã thấy chưa? Những chàng trai Nhật Bản luôn lạnh lùng. Giống như là T của câu chuyện trên vậy đó. Có vẻ như trong trường hợp này, dù cái kết hoàn toàn giống nhau nhưng cách hành xử của sempai Trung Quốc sẽ gần gũi, ấm áp với người Việt Nam chúng ta hơn là cậu bạn Nhật Bản, phải không? Thực ra tôi cũng hiểu tại sao các anh lại lạnh lùng như vậy. Là vì các anh làm gì biết cua gái! Qua tất cả những mối tình của người Nhật mà tôi chứng kiến từ trước đến nay (các vị đại tiền bối có lẽ không tính), thì tôi thấy các anh toàn bị gái cua không à! Tôi nghĩ rằng, kể cả các anh lấy vợ Nhật trong Friend List của tôi cũng vậy, chứ các anh tuổi gì mà đòi cua được gái Nhật, tôi thật! Cuối cùng: Nếu bạn nào thấy rằng mình đã bị tôi troll với câu chuyện thứ hai này, hãy để lại cho tôi một cái mặt cười, bạn nhé! Và tôi xin hứa với bạn rằng, tiếp theo sẽ là một câu chuyện hoàn toàn nghiêm túc!
- Review phỏng vấn Google mùa Covid (2021)_Phần cuối
Hơn 1 tuần sau, Sherry mail hẹn nói chuyện trực tiếp để thông báo kết quả với 1 tông giọng có vẻ tích cực. “I’d love to discuss it with you over the phone about it!” Báo kết quả mà cũng không nói luôn còn bày đặt gọi điện! Mình cũng lên Quora search thử thì có vẻ văn phong này là tin tốt. Tự dưng nghĩ hay là qua rồi nhỉ, biết đâu lại ăn may. Mình còn nghĩ trước xem deal offer như nào là như nào, vân vân rồi mây mây. Nhưng cuối cùng đời chẳng như là mơ các bạn ạ. Kết quả: Tạch ! Anh khá tốt nhưng em rất tiếc! Chúng em có những ứng viên khác tốt hơn! Đúng là bọn thầy phán trên Quora… Kinh nghiệm rút ra Sau vài hôm mình có tham vấn ý kiến của một số bạn bè cũng làm trong GAFA và mấy công ty Mỹ, đúc kết ra nhiều kinh nghiệm Phone Interview là để sàng lọc. Ứng viên nếu quá tồi không qua được Phone thì khỏi tổ chức Onsite làm gì cho phí công. Vì vậy thể hiện được một mức nhất định là sẽ qua. Onsite là câu chuyện khác. Mình phải cạnh tranh với các ứng viên Onsite khác cho chỉ 1 đến 2 vị trí cao nhất trên cùng. 70 bài LeetCode là không đủ. Một anh bạn người Ấn (hiện đã vào Microsoft) đã làm 360 bài Medium + Hard và … đã bị Google Reject 3 lần. Khi vào onsite là xác định cạnh tranh với những ứng viên như trên. Google luôn có rất nhiều ứng viên như thế ứng tuyển. Mình hơi …đen theo 1 ý nghĩa nhất định. —- Theo như góp ý của 1 Googler thì mình fail Hiring Committee trước khi đến Team Match, có nghĩa là chưa đến đoạn cạnh tranh với các ứng viên khác. Có thể hiểu 1 cách gián tiếp là có nhiều ứng viên phỏng vấn và họ đều luyện tập Coding/Algorithm. Google chỉ có 1 số headcount nhất định nên cái bar để pass sẽ được điều chỉnh theo số đông, và mình chưa qua được cái bar đó. —- Một ý nữa khá thuyết phục, là các công ty Mỹ thường định nghĩa tuyển dụng thất bại theo 2 loại: False negative: Loại nhầm người làm được việc. Trong 10 người ứng tuyển, họ lấy 1 loại 9, nhưng có thể 7-8 người trong 9 người kia làm được việc. False positive: Tuyển nhầm, để lọt người không làm được việc vào công ty. Bạn hiểu đơn giản là 1 thanh niên amateur vào viết code bậy bạ rồi sập server, hỏng hết sản phẩm công ty. Các công ty thường muốn tránh (2) hơn (1), và thiết lập rất nhiều vòng Code để loại trừ các yếu tố may mắn. Đơn cử mình có thể ăn may khi biết trước đề và lời giải của 1 bài, nhưng không thể biết trước đề và lời giải của cả 6 bài. Đỗ có nghĩa là tất cả các vòng đều phải thể hiện ok. Điểm tốt là chuyện trượt cũng không có nghĩa mình sẽ vào danh sách đen hay gì, sau 1 năm có thể thử lại. Con số 1 năm đặt ra là do Google nghĩ dưới 1 năm thì 1 ứng viên chưa thể cải thiện được đủ nhiều. Vậy thôi còn gì để nói nữa nhỉ, kết quả là hợp lý. Đổi lại mình thu được kinh nghiệm xem GAFA nó ra ngô ra khoai thế nào, và biết được cách làm để đạt được mục đích. Vậy nhé, chúc mọi người vui vẻ. Mọi câu hỏi cứ comment bên dưới mình sẽ trả lời dần!
- Review phỏng vấn Google mùa Covid (2021)_Phần 1: Quy trình phỏng vấn và phone screening
Giới thiệu về bản thân Hello mọi người, Mình là Minh, 32 tuổi, đã làm Software Engineer khoảng 10 năm. Công ty trước là một startup về FinTech mà kể tên chắc chẳng ai biết, và trước nữa là Mercari, 1 công ty có môi trường và đãi ngộ tốt, mà có thể bạn đã nghe qua nếu bạn làm Tech ở Tokyo. Lần này mình sẽ chia sẻ về một chủ đề mà lẽ nhiều bạn làm Tech quan tâm: phỏng vấn Google, hay nói rộng hơn là phỏng vấn GAFA/ GAFAM/ FAANG. Định nghĩa GAFA GAFA là cái gì? Đây là viết tắt của Google Apple Facebook Amazon GAFAM có thêm Microsoft. FAANG cũng tương tự với N là Netflix, tựu chung lại là những công ty công nghệ lớn của Mỹ. Những công ty này trả lương cho kỹ sư tương đối hậu hĩnh, thường sẽ cao hơn mức lương cơ bản tại Nhật. Và các kỹ sư thường rất thích vào những chỗ đấy vì 1) danh tiếng và 2) mức lương nói trên. Thẳng thắn mà nói thì ai cũng quan tâm đến lương đúng không nào. Lương của GAFA ra sao thì các bạn có thể lên team blind ( https://www.teamblind.com/ ) để xem. Mình cũng không phải là ngoại lệ, tuy nhiên mình biết thừa là với 1 tháng ngồi chơi và một cái profile LeetCode trống không, cũng không từng tham gia thi thố huy chương nọ kia thì cơ hội là không có. Tuy nhiên mình cũng đã thử sức một lần, đương nhiên là đã tạch, nhưng qua đó cũng rút ra nhiều điều mà có lẽ sẽ có ích cho bạn đọc. Resume và quy trình phỏng vấn Mình không rõ Resume cho GAFA có phải đặc biệt gì không, nhưng mình chỉ có một cái Resume có sẵn và vẫn dùng cho cho mọi công ty. Resume của mình viết bằng tiếng Anh, gói gọn trong 1 trang duy nhất và viết ngắn gọn, súc tích hết mức có thể. Mình đã hỏi trước người quen trong Google và được biết nộp Resume trực tiếp hầu như sẽ bị … lơ. Google nhận được rất nhiều Resume lại mọi thời điểm, vì vậy để chắc chắn qua vòng loại bạn cần (1) Có bạn là kỹ sư ở bên trong Google refer cho (2) Có quen biết với Recruiter của Google. Lần này mình không chuẩn bị kỹ và chỉ định thử nên không dùng cách (1) (khá ngại cho người refer mình, bạn biết đấy). Vậy là đã chọn cách (2), vì hồi ở Mercari có một 1 lần Recruiter của Google nhắn tin trên LinkedIn, nên mình ping ngược lại. Kết quả là… sau khoảng 1 tuần đã có một Recruiter khác của Google liên lạc lại. Tadaa Vì bạn Recruiter lần này khác với bạn mình đã ping , nên không hiểu cách (2) thật sự có tác dụng, hay là do profile/resume của mình tốt quá nên thành ngoại lệ (tự ảo tưởng để lấy tinh thần) Vậy là qua được bãi gửi xe rồi nhé. Giờ xách mông lên đi làm khoảng 10 bài LeetCode. Recruiter Screening và chuẩn bị Sherry nói chuyện rất nhẹ nhàng, giọng rất hay. Bạn ấy giới thiệu sơ qua về trình tự phỏng vấn, về cơ bản gồm 3 giai đoạn: Phone Interview (1 vòng phỏng vấn qua Hangout) Onsite Interview (đến công ty làm 5 vòng liên tiếp, trước là đến office của Google kết hợp ăn trưa uống trà, tuy vậy giờ Covid nên tất cả là online hết) Quy trình thẩm định rồi Offer Sherry hỏi mình có muốn …. bỏ qua vòng 1 hay không? Cái quái gì vậy nhỉ? Bỏ qua vòng 1? Như thế chẳng phải lời hơn 1 vòng sao? Phỏng vấn Google vốn rất stress nên bỏ qua 1 vòng là 1 món hời lớn, tuy vậy mình vẫn hỏi lại là bỏ qua hay không thì khác gì nhau. Và câu trả lời là: vòng 1 chủ yếu để ứng viên … khởi động và làm nóng trước khi bước vào loạt onsite đầy cam go. Nếu mình không qua được vòng 1 thì chắc chắn không thể qua được onsite. Sherry muốn tiết kiệm thời gian cho mình nếu mình tự tin. Tất nhiên là mình chọn … xin làm. Rõ ràng mà, mình đâu có tự tin. Tạch sớm tiết kiệm thời gian cho đôi bên. Mà làm bộ nghĩ tui luyện kinh lắm rồi hay sao. Chuẩn bị Sau khi sắp xếp qua lại 1 hồi, có lịch 1 tuần sau lên thớt. Sherry ném cho 1 đống tài liệu chuẩn bị vào mặt mà mình vốn đã kinh hãi lại thêm phần hoảng sợ. Đây nó đây: Cái link thứ 5 bên trên là cái Coding Interview University 167k sao trên Github nhé. Nếu bạn chưa biết thì link đây: https://github.com/…/coding…/blob/main/README.md Riêng cái này thôi học chắc mất 6 tháng. Topcoder, Leetcode, HackerRank…. cuối bảng lại còn có cả ACM-ICPC. Đây là tất cả những thứ có thể liệt kê ra. Thôi kệ ra cứ quay về Leetcode luyện chạy tí cho quen tay vậy. Chắc là giống nhau cả ấy mà, có khi bạn ấy gửi cho …vui. 1 điều nữa là phỏng vấn Google là trên Google Docs , có nghĩa là bạn sẽ không có sự trợ giúp từ IDE hay các bộ toolchain thường ngày. Ok fine. Mình lên Google Docs luyện tập, tắt mấy tính năng rườm rà như tự động sửa chính tả, chỉnh lại font code (mình dùng Consolas) và tăng cỡ chữ lên. Mình đồng thời ghi nhớ những điều chỉnh này để đến khi phỏng vấn có thể chỉnh luôn từ đầu đỡ mất thời gian. Bình thường code có hiển thị màu sắc, giờ sang chế độ đen trắng cảm giác phê phê là. Mình luyện khoảng 20 bài LeetCode nữa, nâng tổng số lên khoảng 30 bài, trong đó hơn nửa là Medium, còn lại là Easy. Ngày lên thớt cuối cùng cũng đến. Mình tắm rửa sạch sẽ cho tỉnh táo, nốc nguyên 1 cốc cà phê. P hone Interview Hoá ra mọi lo lắng về Google Docs là thừa. Google Docs dành cho phỏng vấn… không giống Google Docs. Đó là một bản có hiển thị màu sắc cho từng ngôn ngữ, và ấn xuống dòng có lùi dòng! Nói chung giống như bạn code Sublime Text vậy. Chỉ đơn giản là không có autocompletion. Bạn thậm chí có thể chọn ngôn ngữ mong muốn. Phỏng vấn mình là 1 anh kỹ sư người Mỹ gốc Á. Ảnh nói tiếng Anh cũng không khó nghe lắm. Hình thức là gọi qua Hangout, chào hỏi, ra đề, làm bài. Về cơ bản thì mình có khoảng 40 phút cho tất cả mọi thứ. Độ khó cỡ Medium của LeetCode. Kết quả Mình bắt đầu khá tốt khi đọc hiểu và xác nhận lại đề, thảo luận phương án khả thi và bắt tay vào viết code. Với trình độ khoảng 20 bài Medium thì có lẽ là khả quan hơn mong đợi. Mình cũng code ra đến cuối nhưng không đủ thời gian sửa những lỗi lặt vặt, dẫn đến anh phỏng vấn phải thêm vài phút để hỏi về độ phức tạp (Big-O notation/ Time and Space Complexity). Nếu mấy thuật ngữ này hơi mới thì các bạn có thể tìm hiểu thêm nhé. Mọi thứ diễn ra vượt quá 150% mong đợi, và có kết quả pass ngay 20 phút sau đó. Có vẻ như anh kỹ sư phỏng vấn đã đánh giá ngay và Sherry đã mail lại ngay lập tức! Bạn biết mình có cảm giác gì không? Phê, rất tê, cảm giác như mới vào môn phái mà sắp làm minh chủ đến nơi. Có khi Google đang soạn sẵn offer chỉ đợi mình đến đóng dấu rồi ấy. Tới đi anh cân hết. Cuộc sống chẳng giống cuộc đời, tiếp theo mới là đoạn ăn hành sấp mặt. Kì tới: 70+ bài Medium, 5 vòng onsite, drama, feedback…
- Bàn về chuyện trình độ tiếng Nhật khi đi phỏng vấn tại công ty Nhật
(Đây là trích nguyên bản comment của mình từ bài viết [Góc hỏi kinh nghiệm luyện kaiwa tiếng Nhật] trên group “Đi làm tại Nhật – VPJ” ) “Anh từng là người dạy các lớp Kaiwa và cũng từng khá “soi xét” những cái như là phát âm, rồi ngữ điệu,… Nhưng khi được trải nhiều hơn anh thấy, những kiến thức ở lớp kaiwa em học thực sự không mang lại nhiều điểm cộng nhiều bằng nội dung em truyền đạt. Một người có thể nói không hay, phát âm không chuẩn nhưng lập luận chắc chắn, rõ ràng, đúng trọng tâm thì sẽ toả sáng lấp lánh ánh sao. Ví dụ tình huống: Câu hỏi: Bạn nhận thấy mình có điểm gì phù hợp với vị trí sales cho công ty tôi. Người nói văn hoa màu mè nhưng lan man: “Từ lúc sinh viên tôi đã thích được làm việc abc xyz. Tôi thấy mình có những điểm mạnh như năng động, nhiệt tình, chịu khó,… Dù bất cứ khó khăn nào tôi cũng sẽ cố gắng hết sức mình,… Bla bla bla…” (Đây là 1 câu trả lời khá điển hình. Nếu em có search một vài câu trả lời mẫu sẽ dễ dàng bắt gặp và tất nhiên nếu công ty đó thiếu người, hoặc họ thấy em có tố chất khác phù hợp với công ty thì họ mới nhận, còn câu trả lời này không giúp em nổi bật so với các ứng viên khác) Vậy nên nói gì khi đi phỏng vấn? Người nói có trọng tâm, logic: Đối với vị trí sales của quý công ty, tôi nhận thấy một nhân sự nên có một số tố chất như sau: 1. Khả năng suy nghĩ logic 2. Kiến thức liên quan đến công việc 3. Khả năng quan sát Bản thân tôi cảm thấy mình phù hợp vì: Tôi đã tự rèn luyện khả năng logical thinking từ […] và nó đã được áp dụng vào [...]. Nhờ đó, tôi đã đạt được một số kết quả […]. Để trở thành salesman cho quý công ty, mặc dù tôi học chuyên ngành abc xyz nhưng tự bản thân tôi đã tự tìm hiểu các kiến thức về sales B2B (B2C) theo các mô hình abc, xyz,… và tôi thấy bản thân mình nhận được yaruki (động lực) khi theo đuổi công việc này. Ngoài ra, tôi đã tìm hiểu về sản phẩm, thị trường, các đối thủ, chiến lược kinh doanh, vision của quý công ty. Những nội dung đấy làm tôi cảm thấy rất hứng thú. Nghề sales không đơn thuần là bán hàng mà là cung cấp giải pháp để giải quyết các vấn đề của khách. Để làm được thế thì 観察力 (năng lực quan sát) là rất quan trọng. Tôi đã abc xyz để cải thiện khả năng quan sát của bản thân. Ví dụ cụ thể […]. Đối với quý công ty, tôi nghĩ khả năng này có thể áp dụng cho việc […]. ======= Tất cả những câu trên đây anh type ra, anh tin chắc một bạn học đến tầm ngữ pháp N2 đều có thể chuyển ngữ được sang tiếng Nhật. Một lời khuyên nữa khi giao tiếp là đừng cố làm cái gì quá với năng lực của mình. Nếu em không tự tin với kính ngữ thì hãy nói câu thể lịch sự. Nếu em không tự tin với các ngữ pháp phức tạp thì hãy nói thật tốt và rõ ràng những câu ngắn gọn.” Chúc mọi người phỏng vấn suôn sẻ và thành công!
- [Critical Thinking] Lối suy nghĩ đặt giả thuyết (Hypothetical Thinking)
Chào cả nhà. Trước tiên mình muốn giới thiệu tổng thể về Critical Thinking, mọi người có thể tham khảo tiếng Nhật tại: https://kotobank.jp/word/クリティカル・シンキング-2099758 hoặc tiếng Anh tại: https://www.indeed.com/…/caree…/critical-thinking-skills (mỗi nguồn lại có cách liệt kê skills set khác nhau) Tổng thể này hơi to và đa dạng, nên trong bài viết lần này mình chỉ chia sẻ về Lối suy nghĩ đặt giả thuyết. 1. Phân loại giả thuyết theo mục đích Giả thuyết cho kết luận Khác với vồ vập đốt cháy giai đoạn “jump to conclusion” thì ở mục này, chúng ta đặt ra giả thuyết rồi kiểm chứng, sau đó mới kết luận. Cách này sử dụng “sự tinh tế”, kinh nghiệm, v.v. để đẩy nhanh quá trình thay vì đi mân mê dò đường theo mép tường. Một ví dụ có lẽ ai cũng đã từng trải qua đó là trong Toán học, nhẩm nghiệm rồi chứng minh nó là nghiệm (trong một số trường hợp có chứng minh nó là duy nhất). Giả thuyết để giải quyết các câu hỏi 5W2H, lấp nhưng mảng còn trống hổng. 2. Tiền đề đặt giả thuyết: Thông tin khách quan (thường thức), những điều quan sát được. Ví dụ là giai thoại Isaac Newton bị quả táo rơi trúng đầu hay Archimedes tắm tràn nước. Tri thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan. Mỗi người thuộc lĩnh vực khác nhau có kinh nghiệm khác nhau nên cũng có thể đặt giả thuyết khác nhau. Nếu team có thành phần đa dạng để tham khảo nhiều giả thuyết, có thể tham khảo căn cứ để định hướng kiểm chứng.Ví dụ về kiểu đặt giả thuyết này có lẽ thường gặp ở Risk Assessment (Đánh giá rủi ro), điển hình là ở nhà máy hay công trường xây dựng, khi thao tác với các máy móc hạng nặng có thể gây tai nạn khi bất cẩn. Dựa vào kinh nghiệm mà các thành viên đưa ra giả thuyết những tai nạn như thế nào có thể xảy ra, và do đó, hội đồng quyết định phương án kiểm soát tương ứng.Mặt khác, “kinh nghiệm” hay “thường thức” có thể gây ra định kiến sai khác với hiện thực của trường hợp cụ thể. Vấn đề này sẽ được bàn luận ở phần khác sau này. 3. Các technique trong quy trình đặt giả thuyết Công thức Toyota: Đặt câu hỏi “Tại sao” lặp đi lặp lại 5 lần (có thể ít hơn hay nhiều hơn cho đến khi lần tới gốc rễ của vấn đề) Tham khảo tại video ngắn sau: https://www.youtube.com/watch?v=SrlYkx41wEE Thay đổi góc nhìn, đặt địa vị khác (thường gặp trong báo chí). Có thể bắt gặp ví dụ về kiểu suy nghĩ đặt mình vào địa vị người khác trong các logic riddle của Ted-Ed. Vốn dĩ là mỗi người có mục đích, mục tiêu và tài nguyên khác nhau nên cách tiếp cận cùng một vấn đề sẽ khác nhau. Các bạn có thể theo dõi thêm video sau “Can you solve the pirate riddle?” – Alex Gendler để hiểu thêm nhé: https://www.youtube.com/watch?v=Mc6VA7Q1vXQ Đặt giả thuyết cho tương lai dựa trên các dữ liệu quá khứ. Có lẽ mọi người đều từng trải hành động này. Đơn cử như tình cờ phát hiện 1 lỗi trong hệ thống, thì chúng ta cũng dự lượng cùng 1 lỗi này sẽ tiếp tục phát sinh trong tương lai, do đó cần phải đặt ra phương pháp vá lỗi. 4. Trau chuốt lại giả thuyết Tiếp tục đặt câu hỏi, so sánh với thông tin mới và lần lại về khởi điểm xem giả thuyết này có phục vụ giải quyết câu hỏi ban đầu của chúng ta hay không. Tránh đi lạc sang địa bàn hoàn toàn khác, sau khi rẽ nhiều lần. 5. Kiểm chứng Check tất cả các bước trung gian không thấy lỗi nhưng kết quả kiểm chứng không như ý muốn… Lập kế hoạch kiểm chứng (5W2H), đặc biệt là phương pháp (How) có khả thi hay không? Phân tích định tính và định lượng Đánh giá và tái cấu trúc giả thuyết Đối với các bạn viết code có lẽ cũng trải qua nhiều trường hợp không có bug khi compile, nhưng kết quả không chạy đúng ý muốn. Xây dựng prototype ở thế giới thực hay kế hoạch kinh doanh cũng vậy, check tất cả các bước trung gian không thấy lỗi nhưng kết quả kiểm chứng không như ý muốn thì cũng phải lần mò cấu trúc lại mô hình dựa trên các thông tin (data) mới được bổ sung.Ví dụ về R&D sản phẩm hỗ trợ 1 động tác của người lao động. Sản phẩm thực hiện được đúng chức năng theo thiết kế, nhưng khi mời chào thì đối tượng được nhắm đến lại không có hứng thú. Hỏi ra thì lý do là cồng kềnh và đắt đỏ, trong khi tỷ lệ thời lượng thao tác được tự động hóa chỉ chiếm một lượng thời gian tương đối nhỏ so với tổng thể công việc của họ, nên cost performance không được như ý. Do đó, trong marketing sản phẩm, có framework 4P: Product, Price, Place, Promotion; 3C: Company, Competitor, Customer;… Bản thân mình làm R&D và cũng mới lững thững học sơ cua về sản phẩm hóa, cũng bị choáng ngợp với nhiều yếu tố chưa từng tính đến, nên bài viết này mang tính chia sẻ thông tin cùng nhau học thêm, hơn là chia sẻ kinh nghiệm, mong là có giá trị tham khảo. Nếu mọi người có nguồn nào chia sẻ nữa thì chia sẻ cho mình học hỏi thêm với.
- Chuyện nghề khách sạn ở Nhật (P3): Được khen hay “Bị khen”?
Đây là phần 3 trong series chia sẻ gồm 4 phần của tác giả Phương Kỳ về những câu chuyện khác biệt văn hóa khi làm việc trong ngành khách sạn tại Nhật. P hần 1: Mùa đông ở Hokkaido có thể lạnh đến mức nào? P hần 2: Chữ “Lễ” trong văn hóa Nhật Bản Lời khen đúng chỗ Trong quá trình làm nghề khách sạn ở Nhật, mình nhận ra rằng: khách người Nhật khi thật sự tôn trọng nhân viên người nước ngoài, ít khi nào họ đâm ngang cuộc nói chuyện bằng lời khen “Em giỏi tiếng Nhật quá ha.” Những người như vậy sẽ lắng nghe mình giải thích, có câu hỏi cũng sẽ hỏi bằng thể lịch sự, nói không nhanh ko chậm. Sau cùng khi mình hỏi họ có gì không rõ hay không, thường sẽ nhận được câu trả lời: “Cảm ơn, em giải thích rất dễ hiểu”. Khi mình cúi đầu chào, họ cũng sẽ đáp lễ bằng cách chào lịch sự. Từ đầu tới cuối cuộc nói chuyện cũng sẽ không nhận xét gì về tiếng Nhật của mình. Cùng lắm lúc khách ra về chỉ để lại vài dòng trong tờ khảo sát rằng “Cô gái người nước ngoài đã tiếp đón tôi rất lễ độ. Tôi rất cảm kích”. Có hôm tiếp một vị khách đi với vợ và hai con, lúc mình giải thích thì chăm chú lắng nghe, khi hỏi dùng kính ngữ, sau khi nói chuyện anh nhận giấy tờ chìa khoá xong gập người 45 độ cảm ơn và dắt các con theo dạy chúng cảm ơn mình. Người như vậy khiến mình kính nể vô cùng, tác phong toát ra toàn bộ lễ nghi của Nhật Bản. Nhìn một người mà khiến mình phải tôn trọng văn hóa của cả một đất nước. Lời khen khiếm nhã Nhưng có trường hợp mình chưa kịp mở miệng nói gì đã phủ đầu: “Ồ, bạn là người nước ngoài hả? Tôi cứ tưởng bạn người Nhật luôn đó, giỏi nhỉ giỏi nhỉ…” vân vân mây mây là mình ớn lạnh nhất. Vì chỉ ngay sau đó, mình có giải thích tới cỡ nào họ cũng không thèm nghe, ngó lơ hoặc đang giải thích thì cắt ngang lời, vặn vẹo lại bằng những câu hỏi ác ý, kiểu nói thể ngắn khá kém lịch sự vừa không nói rõ ý muốn, như cố ý thể hiện “Nè, thách mà hiểu được tiếng Nhật của tôi đó”. Cuối cùng sau khi giải thích xong, họ sẽ kiếm chuyện gọi xuống tìm gặp nhân viên người Nhật khác để hỏi lại những điều mình đã nói, chỉ để mách “Nhân viên lúc nãy (là mình) chẳng có giải thích mấy chuyện này”. Tất nhiên vẫn có một số người khen thật lòng. Khác ở chỗ là dành lời khen sau khi mình đã kết thúc phần giải thích, chứ không phủ đầu hoặc ngắt lời. Biểu cảm, cách hỏi… cũng rất khác. Có người sẽ hỏi mình làm ở đây bao lâu, học tiếng ở đâu chẳng hạn. Còn tiếp… P hần 4: Sự kì thị
- Khi Recruiter lên tiếng (P2): Bốn tips giúp làm việc hiệu quả
Xin chào mọi người! Mình tên là Diệp, hiện đang làm việc trong ngành tuyển dụng tại Nhật Bản. Trong phần trước, mình đã chia sẻ về những tiêu chí mà mình thường dùng để đánh giá ứng viên. Hôm nay, mình muốn chia sẻ một chút kinh nghiệm về cách cân bằng công việc trong ngành tuyển dụng. Hy vọng rằng những chia sẻ này sẽ hữu ích cho những bạn đang muốn bước vào lĩnh vực này hoặc đang cảm thấy quá tải trong công việc. Nhiều người thường nói rằng hai năm đầu vào nghề tuyển dụng là giai đoạn khó khăn nhất (có thể đúng với mọi nghề). Điều này càng trở nên thách thức hơn khi mình mới đến Nhật và phải thích nghi với văn hóa mới. Công việc của mình có cường độ khá cao; có những ngày mình làm việc không ngừng, và thật thú vị (hoặc cũng có thể là điều không hay) là công việc dường như không bao giờ kết thúc. Cuối năm ngoái, mình đã trải qua một giai đoạn "burnout" - cảm giác kiệt sức, giảm cân và trở nên khó tính bất thường. Từ đầu năm nay, mình đã chủ động thực hiện một số thay đổi trong cuộc sống cá nhân, và sau hơn 6 tháng, mình cảm thấy mình đã chuyển mình và làm việc hiệu quả hơn rất nhiều. Dưới đây là bốn điều mà mình đã và đang áp dụng; nếu bạn đang gặp vấn đề tương tự, hãy thử xem nhé! 1. Quản lý năng lượng bằng lối sống điều độ Ngủ: Mình cố gắng đi ngủ trước 11 giờ tối và ngủ đủ 7 tiếng. Ăn uống: Tăng cường ăn rau củ quả tươi và giảm bớt thịt đỏ. Tập thể dục: Mình thường bắt đầu ngày mới bằng việc tập yoga, tối thiểu 10 phút, nhưng đôi khi lên đến 30-60 phút. Nhiều ngày mình chỉ tập 10-15 phút nhưng cũng rất hiệu quả. Vitamin cảm xúc: Mình đọc được rằng việc được ôm hay chạm vào người khác rất quan trọng. Nếu bạn không có ai để ôm, hãy thử đi massage thỉnh thoảng. 2. Viết nhật ký và lên kế hoạch Mỗi buổi sáng, sau khi tập thể dục hoặc trước khi bắt đầu làm việc, mình dành khoảng 5-20 phút để viết nhật ký. Trước đây, mình hiếm khi viết tay vì thường dùng điện thoại hoặc máy tính, nhưng việc cầm bút viết đã mang lại cảm giác thư giãn bất ngờ. Mình theo học phương pháp của Jim Kwik, và thường chia nhật ký thành ba cột: To do ( Work ), To do ( Personal – VD. đọc sách, dọn nhà…) và To feel (VD. Calm, positive, grateful…) . Phương pháp này giúp mình định hướng cho ngày mới và theo dõi cảm xúc của bản thân. Khi đọc lại những gì đã viết, mình cảm thấy vui khi nhận ra mình đã làm được nhiều điều. 3. Nói ít, làm nhiều Bình thường, mình nghĩ và nói quá nhiều, dẫn đến mệt mỏi. Bây giờ, mình cố gắng tập trung vào hành động mà không phàn nàn. Khi ghi chú trong nhật ký rằng mình đã tập yoga liên tiếp 10, 20, 30 ngày, cảm giác thật tuyệt vời. Việc thực hiện và ghi chép đã trở thành một thói quen tích cực trong công việc của mình. 4. Rèn luyện khả năng tập trung Mình cải thiện khả năng này bằng cách giảm thiểu việc đa nhiệm và thực hành thiền. Trước đây, mình thường vừa ăn vừa xem tin tức hoặc Netflix, nhưng giờ đây, mình chỉ tập trung vào việc ăn. Điều này không chỉ giúp mình ăn ngon hơn mà còn tiết kiệm thời gian để làm những việc khác. Mình cũng đã chủ động hơn trong việc thiền thông qua ứng dụng Insight Timer, thiền từ 10-30 phút mỗi ngày, tập trung vào hơi thở và cơ thể. Không biết có phải nhờ vậy mà hiện tại mình làm việc hiệu quả hơn và cảm thấy nhẹ nhàng, giảm bớt căng thẳng. Kết luận Trên đây là một vài chia sẻ nhỏ bé của mình (mặc dù có thể hơi dài dòng). Mình viết những điều này khi chưa đến 30 tuổi, chưa có con, chưa thành thạo tiếng Nhật, và vẫn đang tìm hiểu về môi trường làm việc tại Nhật Bản. Tuy chưa có nhiều kinh nghiệm hỗ trợ các start-up hay làm việc với những người mới vào nghề, nhưng mình hy vọng rằng những chia sẻ này có thể mang lại giá trị nào đó cho bạn. Rất mong được kết nối và học hỏi thêm từ nhiều bạn và các anh chị. Chúc mọi người luôn khỏe mạnh và hạnh phúc! Namaste. *Bài viết được biên tập lại từ bài viết gốc của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Diệp trên Group Facebook: Đi làm tại Nhật VPJ
- Chuyện nghề khách sạn ở Nhật (P1): Mùa đông ở Hokkaido có thể lạnh đến mức nào?
Background của mình: đậu khách sạn với bằng JLPT N5 Tốt nghiệp với bằng Cử nhân kinh doanh ngành Marketing ở Việt Nam, mình ra trường làm trợ giảng tiếng Anh rồi vất vả lắm mới “bẻ lái” sang nghề Marketing. Mình làm truyền thông được độ gần 3 năm ở 2 công ty thì đùng một cái bay sang Nhật học tiếng Nhật 1 năm. Học tiếng Nhật xong mình lại liều một phen đi xin việc tại Nhật, chỉ với cái bằng N5 trong tay do thi rớt N2. Thế mà trường cũng giúp mình vượt qua mấy vòng phỏng vấn rồi đậu được vị trí lễ tân khách sạn ở Hokkaido. Lúc đó, mình vẫn nghĩ sẽ chỉ ráng theo nghề chừng 1 năm, đậu được N2 hay N1 gì đó rồi nhảy việc. Không ngờ mình dính với nghề tận 3 năm trời. Giờ ngẫm lại mới thấy mình đã vượt qua biết bao “sóng gió cuộc đời” với cái nghề này rồi. Công việc đầu tiên: bell Được tuyển vào khách sạn với vị trí lễ tân, nhưng việc đầu tiên mình được giao khi bắt đầu công việc tại đây là đứng ngoài cửa làm bell (nhân viên phụ trách hành lý trong khách sạn). Hướng dẫn khách đậu xe, vác hành lý vào sảnh, khách ra vào thì phải cúi chào… lâu lâu có người hỏi đường… những việc nhìn chung không quá kinh khủng nếu vào ngày trời đẹp ấm áp. Mình bắt đầu đi làm vào tháng 10, cũng là mùa thu ở Hokkaido. Lá vàng lá đỏ nhuộm cả ngọn núi khiến cảnh nên thơ vô cùng. Thế nhưng, cảnh chỉ đẹp khi ta đi dạo thư giãn, du lịch bên người thương. Còn đi làm thì lại khác. Đứng liên tục ngoài trời 3 – 4 tiếng đồng hồ trong thời tiết dưới 10 độ không hề dễ chịu chút nào. Mùa đông ở đây kéo dài 5 – 6 tháng, không có gì ngoài tuyết? Mùa đông đến mới thực sự bi kịch. Mùa thu chỉ chừng một tháng là kết thúc, còn mùa đông trên núi ở Hokkaido kéo dài khoảng 5- 6 tháng tùy theo năm. Tuyết trắng trời, cảnh vật chỉ hai màu đen trắng, tựa như bức tranh thủy mặc. Thời điểm lạnh nhất có thể xuống đến âm 20 độ, thông thường thì sẽ vào khoảng âm 10 độ trở lại. Độ tháng 1 – 2 vùng này còn có hẳn một lễ hội băng hoành tráng để thu hút khách du lịch. Hồi ấy, mấy lần mình đứng nhìn tuyết rơi mà lòng cảm thấy hối hận vì đã đến Nhật mà vứt bỏ sự nghiệp ở Việt Nam. Rõ là đang làm ở tập đoàn to, việc văn phòng, ráng làm một thời gian có khi được thăng chức tăng lương này nọ… tự nhiên dở hơi sang đây học tiếng xong rồi đòi đi làm bên này… Kì thực lạnh thôi thì không nói, kinh dị nhất là gió. Gió cắt da cắt thịt, hôm nào vừa gió vừa tuyết thì khỏi nhìn thấy đường đi. Tuyết ngập giày di chuyển khó khăn, mà còn phải hướng dẫn xe đậu. Gió tuyết tát đỏ cả mặt, đã thế còn phải vác từng tảng hành lý to đùng vào khách sạn. Hôm nào tuyết rơi quá dày mà không có xe cào tuyết thì phải lấy xẻng ra cào để tuyết không che lấp cửa ra vào. Mỗi ngày đều đặn 4 tiếng, tay và mặt mình thiếu điều muốn bỏng lạnh, khớp tay khớp chân đau đớn rã rời. Đó là công việc của mình trong 4 tháng đầu tiên đi làm ở khách sạn ở Nhật. Cái lạnh bên ngoài không bằng cái lạnh giữa người với người.. Hồi ấy, mấy lần mình đứng nhìn tuyết rơi mà lòng cảm thấy hối hận vì đã đến Nhật mà vứt bỏ sự nghiệp ở Việt Nam. Rõ là đang làm ở tập đoàn to, việc văn phòng, ráng làm một thời gian có khi được thăng chức tăng lương này nọ… tự nhiên dở hơi sang đây học tiếng xong rồi đòi đi làm bên này. Người thì yếu ớt chứ có khỏe khoắn gì mà lao động chân tay, đau đớn mệt mỏi đơn độc không biết kêu ai vì sợ bị chửi là ngu thì ráng mà chịu. Chờ mãi cũng không thấy ai chỉ việc cho mình thì lại nghĩ chắc người ta khinh mình là người nước ngoài không biết tiếng, càng cảm thấy tủi thân uất ức. Buồn như vậy nhưng ai mà hiểu cho, tự về phòng đóng cửa ngồi khóc, xong hôm sau lại phải đi làm, tự nhủ thôi thì ráng một năm rồi nhảy việc. Cái sự buồn cười là sau này khi nếm trải đắng cay khi đứng trong quầy lễ tân rồi, mình lại toàn đòi ra cửa đứng dù trời mưa hay trời tuyết. Vì đứng bên ngoài cực thân chứ không mệt não, cũng ít bị chửi, bị phốt hơn, lại đỡ căng thẳng hơn nhiều. Tính ra, cái lạnh mùa đông của ông trời vẫn không khốc liệt bằng sự lạnh lùng tàn nhẫn mà loài người đối đãi với nhau. Ấy vậy đến giờ 3 năm chưa chuyển sang chỗ khác được vì nhiều lý do. Nói trắng ra là xin việc chỗ nào cũng rớt T.T. Sau này mình vào làm quầy lễ tân rồi hỏi ra mới biết ai mới vào làm cũng đều phải đứng ngoài cửa thế thôi. Chẳng phân biệt người Nhật hay người nước ngoài, tùy trường hợp mà thời gian đứng cửa dài làm bell dài ngắn khác nhau. Chị gái người Trung làm cùng kể chị phải đứng ngoài đến tận nửa năm trời. Cái sự buồn cười là sau này khi nếm trải đắng cay khi đứng trong quầy lễ tân rồi, mình lại toàn đòi ra cửa đứng dù trời mưa hay trời tuyết. Vì đứng bên ngoài cực thân chứ không mệt não, cũng ít bị chửi bị phốt hơn, lại đỡ căng thẳng hơn nhiều. Tính ra, cái lạnh mùa đông của ông trời vẫn không khốc liệt bằng sự lạnh lùng tàn nhẫn mà loài người đối đãi với nhau. Nếu ai hỏi mình kinh nghiệm đi làm ở khách sạn Nhật thì nói thiệt chứ vẫn nên né mấy cái núi tuyết ra thì hơn. Làm việc ở thành phố khỏe hơn nhiều. Trộm vía mình không bệnh trận nào nặng nhưng bị xuống sức kinh khủng. Nhiều bạn chịu lạnh kém sẽ dễ bị cảm cúm các kiểu, có người bị dị ứng thời tiết da nổi mề đay thì khổ lắm. Còn drama khi đứng trong quầy làm công việc lễ tân thì chắc phải kể chuyện dài kỳ chứ một lời khó nói hết!
- Làm IT nhưng có thù với Code (Phần 2)
Đọc thêm: Làm IT nhưng có thù với Code (Phần 1) Mục lục Giới thiệu công việc Sales IT Nên chuẩn bị những gì khi muốn vào làm việc trong công ty IT? Tiếp theo bài viết ở phần trước, phần này mình sẽ giới thiệu chi tiết hơn về công việc Sales IT cũng như những kỹ năng bạn nên chuẩn bị khi muốn vào làm việc trong công ty IT 1. Giới thiệu công việc Sales IT Lại một nhầm tưởng nữa về sales IT đó là salesman như mình sẽ trực tiếp đi tìm kiếm khách hàng và “câu kéo” khách hàng mua sản phẩm của công ty mình. Thực tế không phải như vậy. Có hai khái niệm cần phân biệt rõ là B2C và B2B. B2C (Business to Customer): sản phẩm hướng tới những người dùng đơn lẻ như các công ty sản xuất đồ ăn, dầu gội,… B2B (Business to Business): hai công ty làm việc với nhau, ví dụ công ty A chuyên cung cấp các sản phẩm trang trí nội thất văn phòng cho các doanh nghiệp muốn decor (trang trí) lại không gian văn phòng của họ. IT có thể xem là ngành cung cấp solution (giải pháp) và thông thường sẽ giải quyết các vấn đề mà một doanh nghiệp gặp phải. Vì vậy, sales IT không thể là một cá nhân đi tìm khách hàng đang ở đâu đó được mà là hai doanh nghiệp phải làm việc với nhau. Giả sử mình có quen một bác giám đốc nào đó và bác rất thích sản phẩm Offshore của công ty mình nhưng hội đồng quản trị của công ty bác ấy lại không đồng ý thì cũng không được. Cho nên, công việc của sales IT có thể chia thành 3 mảng chính. Marketing : chuyên đi thu thập thông tin của khách hàng, gọi là leads. Inside Sales: chuyên lấy các leads nhận được từ Marketing và đặt lịch hẹn các kiểu. Outside Sales (hay còn gọi là Field Sales) : là phần việc sau khi Inside sales đã đặt được lịch hẹn rồi sẽ tiến hành approach (tiếp cận) khách hàng, hearing (lắng nghe và tiếp nhận) vấn đề, transfer (chuyển giao) cho đội tư vấn để đưa ra giải pháp và take care (chăm sóc) khách với mục đích nhận được 発注書 (đơn đặt hàng) từ khách. Lưu ý, có nhiều mô hình sales khác nhau. Ví dụ, theo SaaS (Sales as a Science) nghiệp vụ của sales không dừng lại ở thời điểm kết thúc hợp đồng mà còn kéo dài mãi. Kể cả khi đã bàn giao sản phẩm cho khách hàng, sales vẫn phải có các hoạt động CSM (Customer Success Management) hay After Follow… Kinh nghiệm cá nhân Ở HBLAB – nơi mình làm việc với vị trí sales trước đây, mình đã làm nội dung công việc gần giống Outside Sales/ Field Sales. Nghĩa là mình không trực tiếp đi tìm khách mà sẽ đảm nhận việc lắng nghe khách, tìm ra vấn đề, kết nối với bên tư vấn và đề xuất giải pháp để khách hàng có thể giải quyết vấn đề của họ. Để nói sâu hơn về công việc Field sales chắc mình cần viết nguyên một cuốn sách, nên tạm thời mình sẽ chỉ nói sơ qua thôi nhé. Mình đi lên vị trí này từ việc làm Comtor (phiên dịch trong các dự án). Sau đó, mình có làm B2B và B2C ở ngành nghề khác trong vài năm. Đến thời điểm quay lại với IT thì mình cũng chập chững học từ những bài học rất đơn giản. Bài học đầu tiên mình được học ở HBLAB đó là vẽ Flowchart (sơ đồ quy trình) . Suốt nửa năm sau thì bất cứ lời nói, câu chữ nào của mình khi trao đổi với khách đều được chị mentor (người hướng dẫn) chỉ từng li từng tí, mặc dù mình cũng đã có kinh nghiệm dạy tiếng Nhật từ sơ cấp đến thượng cấp trong vòng 7 năm. Mình bắt đầu từ những tác vụ đơn giản, tham gia vào dự án để hiểu 1 quy trình làm dự án có những đặc thù như thế nào, học về chu trình sales để biết được cần phải làm gì, hỗ trợ các anh chị lớn khi các anh ấy làm việc, học cách đọc hợp đồng,… Đến thời điểm hiện tại đã có 1 vài khách mình catch up riêng, nhưng vẫn có nhiều khách mình phải nhờ các anh lớn vào ngồi cùng vì không tự tin có thể hearing được cụ thể vấn đề mà họ đang gặp phải. 2. Nên chuẩn bị những gì khi muốn vào làm việc trong công ty IT? Khi tìm việc ở Nhật, mình đã ngồi cầm bút viết ra danh sách các tiêu chí: Công ty phải ở Tokyo Nenshu (thu nhập năm) tối thiểu phải… Nội dung công việc trong các ngành… Bản thân mình vốn không phải là có đam mê với ngành này và chọn nó từ đầu. May mắn cũng nhận được vài offer (lời mời làm việc) của 3 – 4 ngành khác nhau và mình đã chọn HBLAB khi quyết định sang Nhật. Dù đây có thể không phải là công ty ra offer đến mình với giá cao nhất, nhưng là nơi mà mình thấy phù hợp nhất vào thời điểm đó. Tại thời điểm bắt đầu làm sales IT, hành trang của mình không có gì khác ngoài cái bằng đại học kỹ sư Bách Khoa, không viết nổi một dòng code, N2 lấy từ năm 2015 và tâm hồn vô cùng đẹp. Nhưng mình may mắn có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực thực tế trong 5 – 6 năm đi làm nên cũng có thể xem là có chút niềm tin. Làm IT hay bất cứ công việc gì trong thời đại này, các kỹ năng dưới đây có thể xem như điều kiện tối thiểu. 1. Logical Thinking – suy nghĩ, trình bày logic 2. Tin học văn phòng cơ bản Ít nhất phải xài được Word và PowerPoint. Excel thì có thể không rành nhưng phải biết căn chỉnh hàng cột thế nào để người ta nghĩ mình giỏi excel. 3. Xác định làm liên quan đến nước ngoài thì phải không ngừng trau dồi ngôn ngữ và kiến thức về văn hóa nước đó. Nhiều bạn vất vả có N2 và quyết định tạm dừng việc học vì nghĩ đã đủ. Nhưng HR của Amazon nói với mình rằng điều kiện để làm sales ở Amazon là native speaker tiếng Nhật, N1 là điều kiện tối thiểu. Nghĩa là bản thân người đó phải đạt trình nói tiếng Nhật như người bản xứ chứ không phải chỉ cần hai bên hiểu nhau được là được 4. Cái nhìn bao quát về công việc mình sẽ làm. Ví dụ làm sales thì sẽ có career path như thế nào? Mình sẽ ở level Junior trong mấy năm, sau mấy năm nữa sẽ phải đạt được level Senior. Nếu trở thành senior mình cần phải đạt được các yêu cầu gì,… 5. Kiến thức trong quá trình học các chứng chỉ thực tế. (Đây là optional – không bắt buộc)Ví dụ như mình có kinh nghiệm đi làm tận 5 năm trước khi chính thức làm sales IT, nhưng với những bạn mới ra trường thì lấy đâu ra. Vì thế, các chứng chỉ mang tính thực tiễn như IT passport, boki, BJT… sẽ có lợi thế rất nhiều khi các bạn làm việc. Vì chúng sẽ cho mọi người nhiều khái niệm chuyên môn mà đến khi đi làm nếu có tiếp xúc cũng sẽ không bỡ ngỡ. Cuối cùng là… Chứng chỉ không quan trọng. Kiến thức trong quá trình học chứng chỉ đấy mới quan trọng. Một bài viết siêu dài nhưng những điều mình muốn truyền tải vẫn còn rất nhiều. Nếu các bạn có nội dung gì muốn giải đáp mà mình có thể trả lời được, cứ bình luận dưới đây nhé!







![[Critical Thinking] Lối suy nghĩ đặt giả thuyết (Hypothetical Thinking)](https://static.wixstatic.com/media/11062b_ddf65ff33c58495eaec63bb12cd022eb~mv2.jpg/v1/fit/w_176,h_124,q_80,usm_0.66_1.00_0.01,blur_3,enc_auto/11062b_ddf65ff33c58495eaec63bb12cd022eb~mv2.jpg)



